Lịch sử đấu tranh Cách mạng xã Phú Đức (1930-2023)
(tiếp theo kỳ trước)
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI
I. TỰ NHIÊN VÀ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ HÀNH CHÍNH
Xã Phú Đức nằm ở phía tây của huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, cách trung tâm Thị trấn Châu Thành 16 km, phía Đông giáp xã Phú Túc, phía Tây giáp xã Tân Phú, phía Nam giáp xã Quới Thành và xã Tân Phú, phía Bắc giáp sông Tiền.
Dưới thời vua Minh Mạng, Phú Đức là hai thôn: Phú Đức Đông và Phú Đức Tây, thuộc tổng Thuận Trị, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường. Từ đầu thời Pháp thuộc, thôn Phú Đức Đông và Phú Đức Tây được nhập lại thành thôn Phú Đức. Từ 5-1-1876, thôn được đổi thành làng, làng Phú Đức thuộc hạt tham biện Mỹ Tho. Ngày 23-3-1912, Phú Đức thuộc quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Ngày 27-6-1956, chính quyền Sài Gòn nhập Phú Đức về quận Bình Đại tỉnh Bến Tre (Nghị định số 37-BNV/HC của Bộ trưởng Nội vụ). Từ sau ngày 22-10-1956, xã Phú Đức thuộc quận Sóc Sãi (quận Hàm Long), tỉnh Kiến Hoà.
Về phía cách mạng, năm 1948, cuộc họp gồm đại diện hai tỉnh Mỹ Tho, Bến Tre quyết định nhập quận An Hoá về Bến Tre. Sau đó, Tỉnh uỷ Bến Tre cắt 11 xã phía Tây kênh An Hoá nhập vào huyện Sóc Sãi; Phú Đức là một trong 24 xã thuộc huyện Sóc Sãi.
Sau đồng khởi đợt I năm 1960, Tỉnh uỷ Bến Tre quyết định nhập huyện Châu Thành và huyện Sóc Sãi thành một lấy tên là huyện Châu Thành; Phú Đức là một trong 24 xã thuộc huyện Châu Thành.
Năm 1972, do chiến trường bị chia cắt bởi liên tỉnh lộ 6 (quốc lộ 60), Tỉnh uỷ Bến Tre quyết định tạm thời chia huyện Châu Thành thành hai huyện: Châu Thành Đông và Châu Thành Tây; Phú Đức là một trong 14 xã thuộc huyện Châu Thành Tây.
Sau 30-4-1975, Tỉnh uỷ lại quyết định nhập huyện Châu Thành Đông và Châu Thành Tây thành một huyện Châu Thành. Phú Đức là một xã của huyện Châu Thành cho đến ngày nay.
Thực hiện Quyết định số 364 của Chính Phủ về phân định hành chính, năm 1994, xã Phú Đức tách một nửa ấp Phú Lễ (lấy ranh từ vàm Bà Hét) và một phần ấp Song Phú giao cho xã Phú Túc; đồng thời nhập một nửa ấp Phú Xuân của xã Phú Túc vào xã Phú Đức.
Năm 2019, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 15/NQ-HĐND về nhập các ấp, khu phố trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Theo đó, xã Phú Đức nhập ấp Phú Lễ và ấp Phú Định thành ấp Định Lễ.
Hiện nay, Phú Đức có 7 ấp: Phú Ninh, Phú Long, Phú Tường, Phú Hội, Phú Xuân, Song Phú, Định Lễ.
Diện tích tự nhiên của xã Phú Đức là 1.417 ha. Phú Đức được hình thành do phù sa của sông Cửu Long bồi đắp, màu mỡ. Xã có các cồn: cồn Lác (thuộc ấp Định Lễ), cồn Dơi (gồm ấp Phú Ninh và Phú Hội).
Phú Đức có nhiều sông rạch chằng chịt. Sông Tiền chảy ngang qua xã, phụ lưu là rạch Bà Hét, chảy trên địa bàn ấp Định Lễ, Phú Xuân, Song Phú đến sông Ba Lai. Rạch Ông Đa chảy từ ấp Phú Hội qua ấp Phú Tường đổ ra sông Ba Lai (Theo các cụ lớn tuổi trong xã cho biết, xưa rạch này có tên là rạch Ông La về sau đọc trại thành rạch Ông Đa). Sông Ba Lai (thượng nguồn sông Ba Lai có tên là sông Xáng) chảy ngang qua xã đến biển Đông. Các sông này vừa cung cấp nước, mang phù sa bồi đắp cho ruộng vườn tươi tốt, vừa là đường giao thông thuỷ thuận lợi. Ngày xưa, trước khi người Pháp đào kinh Chẹt Sậy qua Giao Hoà thông ra sông Mỹ Tho, thì việc đi lại đường sông Ba Lai qua ngã Phú Túc, Phú Đức.
Giữa xã có một hương lộ chính nối dài từ ngã tư huyện Châu Thành qua An Khánh, Phú Túc đến Phú Đức (nay là Quốc lộ 57B), chia xã ra thành hai vùng: Nam và Bắc. Giữa trung tâm xã có con đường nối từ hương lộ chính đến xã Quới Thành (nay là đường liên xã Phú Đức – Quới Thành). Ven sông Tiền có tuyến đường Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch các xã ven sông Tiền được xây dựng từ cảng Giao Long đến xã Tân Phú đi qua xã Phú Đức, tạo nhiều điều kiện thuận lợi về giao thông, phát triển kinh tế cho xã.
Trong kháng chiến chống Mỹ, các tuyến đường trong xã đều bằng đất, nhỏ hẹp, rất khó đi lại, vận chuyển, nhất là vào mùa mưa. Sau giải phóng, chính quyền và Nhân dân đã tu sửa, nâng cấp nhiều tuyến đường bảo đảm đi lại được dễ dàng thông suốt, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đến năm 2023, xã có 25.370m đường được nhựa hóa và bê tông hóa đạt chuẩn tạo điều kiện thuận lợi cho đi lại và giao thương.
Đất đai màu mỡ, khí hậu hai mùa mưa nắng rõ rệt, thời gian nước lợ vào tháng 3 âm lịch, kéo dài khoảng một tháng, do đó rất thuận lợi cho các loại cây trồng phát triển.
Kinh tế của xã chủ yếu là nông nghiệp, diện tích đất sản xuất nông nghiệp hiện nay là 918,10 ha, chủ yếu trồng các loại cây có giá trị cao như: sầu riêng, bưởi da xanh, dừa …. Ngoài ra, Nhân dân còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi tôm cá.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Phú Đức là đường giao bưu của huyện An Hoá, Sóc Sãi, Châu Thành, vùng căn cứ đứng chân của nhiều đơn vị bạn như: Chi đội 17 Mỹ Tho, đơn vị pháo binh quân khu VIII, quân bưu liên tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho, bộ đội địa phương và Quân y quân khu VIII, Hậu cần quân khu, Hậu cần của tỉnh, lực lượng Y 4 Sài Gòn-Gia Định, lực lượng du kích và chi bộ xã Quới Thành, Thành Triệu, Tiên Long, Tiên Thuỷ, Tân Phú, lực lượng cách mạng các xã và các ban ngành của huyện Chợ Lách. Do vậy, đến khi kết thúc chiến tranh, hầu hết diện tích đất vườn và ruộng đã bị huỷ diệt do bom đạn và chất độc hoá học của Mỹ tàn phá. Sau ngày 30-4-1975, ruộng vườn đã được hồi phục như cũ.
II. DÂN CƯ VÀ TRUYỀN THỐNG
Cuối thế kỷ XVIII, Phú Đức còn là vùng sình lầy hoang vu, có nhiều thú dữ. Những câu chuyện kể về những đợt sóng thần trên sông Ba Lai, cá sấu trên vàm Bà Hét, rắn độc ở cồn Lác, cồn Dơi … chứng tỏ thiên nhiên ở nơi đây vô cùng khắc nghiệt.
Thế kỷ XVIII, những người dân Việt từ miền Trung đã đặt chân đến khai phá vùng đất Phú Đức. Công việc đầu tiên của lớp người đi trước là chống chọi thú dữ, thiên tai khắc nghiệt, dọn đất gò cao để ở, phá rừng khẩn hoang trồng lúa nước, đóng thuyền bè đi lại và làm nghề đánh cá trên sông. Theo năm tháng, Phú Đức mới có thêm khá đông người đến định cư. Theo Địa bạ Minh Mạng năm 1836, thôn Phú Đức Đông, ở xứ Thâm Đà (Rạch Sâu) đã khai khẩn được 297,4 mẫu đất (sơn điền 137,6 mẫu và viên lang thổ có 159,7 mẫu); thôn Phú Đức Tây ở xứ An Sơn đã khai khẩn được 587,8 mẫu (sơn điền 173,2 mẫu, viên lang thổ 414,5 mẫu).
Đầu thế kỷ XX, thôn Phú Đức có 710 hécta (hectares) (diện tích đất xấp xỉ thời vua Minh Mạng), dân số 1.809 người.
Năm 1945, dân số Phú Đức có khoảng 1.400 người. Năm 1960, có khoảng 2.500 người. Năm 2023, xã Phú Đức có 2.346 hộ với 9.256 nhân khẩu, đa số là người Kinh, mật độ dân số khoảng 653 người/km2.
Nằm ven bờ sông Tiền đối diện huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang, hầu hết dân cư Phú Đức sống bằng nghề nông (làm vườn, làm ruộng, chăn nuôi gia súc, gia cầm…), đóng đáy trên sông rạch, một số ít gia đình sống bằng nghề thủ công (may mặc, thợ mộc…) và nghề mua bán nhỏ (mua bán lương thực, tạp hóa).
Về tôn giáo, Nhân dân theo các đạo Phật và đạo Thiên Chúa. Đạo Phật có chùa Bửu Đức, chùa này được xây dựng vào năm 1957, trong kháng chiến chống Mỹ bị bom đạn tàn phá, đến năm 1991 được xây cất khang trang.
Mảnh đất Phú Đức từng ghi đậm chiến công của các thế hệ tiền nhân đã không tiếc máu xương chiến đấu vì tự do, độc lập của Tổ quốc. Nơi đây diễn ra trận đánh oai hùng của nghĩa quân Tây Sơn đánh tan quân Xiêm - Nguyễn trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút. Năm 1777, cùng với Nhân dân phía tây cù lao An Hoá, Nhân dân Phú Đức, Phú Túc, An Khánh và đạo quân Tây Sơn do một nữ tướng thân cận của Đô đốc Bùi Thị Xuân tên là Dương Thị Lụa cùng với chồng là tướng quân Nguyễn Bạch chỉ huy cánh quân đánh tan quân Xiêm trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút mà ngày nay sử sách còn ghi lại. Tương truyền người chỉ huy cánh quân vu hồi tại bờ Nam sông Tiền lại là nữ tướng Tây Sơn Dương Thị Lụa, người có công đuổi bắt Nguyễn Vương Phúc Thuần. Trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút, khi đoàn thuyền chiến chở đầy quân địch vừa xuất hiện tại cồn Thới Sơn (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) thì súng “hỏa hổ” của nghĩa quân Tây Sơn bắt đầu nổ lệnh, lập tức cánh quân vu hồi từ Phú Đức - Phú Túc - An Khánh đồng gióng trống, khua chiêng và quát to vang dậy theo kế nghi binh. Bấy giờ, lồng trong tiếng trống, tiếng chiêng và tiếng hò reo của hàng ngàn nghĩa sĩ là tiếng hô vang động của bà Dương Thị Lụa làm kích động đến đàn voi chiến tại cánh quân chủ lực phía bên kia sông do đích thân vợ chồng bà Bùi Thị Xuân đốc chiến. Đàn voi nghe tiếng bà Lụa nên vừa xung trận vừa gầm vang dữ dội khiến quân Xiêm kinh hồn bạt vía dẫm lên nhau mà chạy. Từ đó, Nhân dân Phú Đức đặt tên cho vàm rạch là vàm Bà Hét để ghi nhớ chiến công oanh liệt của người nữ anh hùng áo vải Tây Sơn trong một trận đánh lừng danh kim cổ.
Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm các tỉnh Nam Kỳ, Nhân dân Phú Đức Đông và Phú Đức Tây đã tham gia các phong trào yêu nước chống Pháp như Trương Định, Thủ Khoa Huân.
Với tinh thần yêu nước, Nhân dân Phú Đức đã đến với Đảng Cộng sản Việt Nam chiến đấu vì lý tưởng Cộng sản, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Từ đây, lịch sử đấu tranh cách mạng của Nhân dân Phú Đức mở ra một trang mới.
(còn tiếp)