Lịch sử đấu tranh Cách mạng xã Phú Đức (1930-2023)
(tiếp theo kỳ trước)
CHƯƠNG I
DƯỚI NGỌN CỜ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,
NHÂN DÂN PHÚ ĐỨC ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
I. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN PHÚ ĐỨC TRONG 10 NĂM ĐẦU CÓ ĐẢNG (1930-1940)
Dưới thời thực dân Pháp thống trị, sự phân hoá giai cấp ở Phú Đức diễn ra sâu sắc. Phần lớn đất đai trong làng Phú Đức đều do địa chủ chiếm hữu. Những địa chủ như Huyện Sung, Tổng Túc, Ký Mười, Cả Định có hàng trăm mẫu tại Phú Đức. Đại bộ phận nông dân không có đất sản xuất phải làm tá điền cho địa chủ, hàng năm phải nộp tô, tức, cuộc sống vô cùng khổ cực.
Ngoài áp bức, bóc lột của địa chủ, người dân Phú Đức còn phải chịu sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp, mất hết các quyền tự do dân chủ. Hàng năm, những trai tráng trong làng tuổi từ 18 đến 55 đều phải đóng thuế thân từ 4,5 đồng (hạng vô sản), 5,5 đồng (hạng hữu sản) (tiền một ngày công chỉ là 0,2 - 0,3 đồng tức 2 – 3 cắc). Nhiều người không đủ tiền đóng thuế thân phải trốn tránh, rời bỏ làng, nhưng cũng có những người can đảm dám chống đối bọn hội tề đi thu thuế. Theo các cụ kể lại: ông Năm Đương ở ấp Phú Lễ đã chém Quản Ngân khi hắn đi thu thuế thân. Ông bị chính quyền thực dân bắt bỏ tù, chích thuốc cho mù mắt. Ngoài việc bóc lột bằng thuế khoá, chính quyền thực dân còn bắt dân đi lính, đi làm sưu (làm xâu) cho các công trình công cộng. Mỗi năm, hội tề làng bắt thanh niên trong độ tuổi 22, là dân có trong hộ tịch, có đóng thuế thân (người tình nguyện có thể đăng lính từ tuổi 20-26), ra nhà việc bắt thăm, thăm để trong một cái hũ, ai trúng thăm số nhỏ sẽ được ghi vào danh sách. Dân gian có câu:
Thăm lính 23 may với rủi
Thánh thần nào kể kẻ sang giàu!
Nhưng thực ra, những người nghèo không có tiền lo lót cho làng đều phải đi lính cho Pháp. Có những người như Lê Văn Vọng, Đỗ Tấn Chính bị bắt đi lính, đưa ra nước ngoài chiến đấu làm bia đỡ đạn chết thay cho giặc Pháp. Với chính sách ngu dân của thực dân Pháp phần lớn người dân trong làng đều bị thất học.
Cuộc sống khổ cực càng nung nấu thêm tinh thần, ý chí đấu tranh của Nhân dân, khi có điều kiện Nhân dân sẵn sàng nổi dậy chống áp bức bất công.
Trước cảnh mất nước, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lê nin và trở thành người cộng sản. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập ở Quảng Châu một tổ chức cách mạng lấy tên là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Cuối năm 1926, Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Mỹ Tho được thành lập và nhanh chóng xây dựng cơ sở cách mạng ở nhiều nơi trong tỉnh. Những người yêu nước trong tổng Hoà Quới tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong số hội viên đầu tiên có đồng chí Tám Hùng và đồng chí Huỳnh Văn Kỷ là người An Khánh được Tỉnh bộ phân công đến Phú Túc, Phú Đức để xây dựng cơ sở của Hội và gầy dựng phong trào.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối cách mạng giải phóng dân tộc bắt đầu thấm sâu vào tâm tư, tình cảm của Nhân dân Phú Đức, Phú Túc. Bà Tám Mạnh, bà Hai Chơi, ông Hai Chắc, anh Trần Văn Kỳ sớm trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng khu vực phía tây cù lao An Hoá.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đầu tháng 4-1930, Tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho - Bến Tre được thành lập. Tỉnh uỷ lâm thời Mỹ Tho - Bến Tre đã xây dựng nhiều chi bộ Đảng ở quận Châu Thành (Mỹ Tho) Chi bộ ghép Phú Túc - Phú Đức do đồng chí Trương Văn Nhiều làm Bí thư.
Ngay sau khi thành lập, chi bộ ghép Phú Túc - Phú Đức thực hiện chỉ đạo của trên, mở đợt tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng về chủ nghĩa cộng sản và đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Từ đó cùng với Nhân dân Phú Túc, Nhân dân Phú Đức tích cực tham gia hoạt động cách mạng trong các tổ chức quần chúng công khai như hội lân, hội bóng đá, hội bóng chuyền, hội đèn, hội tương tế ái hữu...liên tục đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.
Ngày 1-5-1930, Nhân dân các xã thuộc quận Châu Thành (Mỹ Tho) (như Vĩnh Kim, Tam Hiệp, Nhị Bình, Long Hưng, Long Định,…) đã tổ chức mít tinh, bãi thị (không nhóm chợ). Hưởng ứng phong trào chung trong quận, chi bộ Phú Túc - Phú Đức phân công đồng chí Đỗ Văn Hưng treo một lá cờ Đảng trên ngọn cây cau sau nhà ông Nhiên, gần đình Phú Hoà (Phú Túc). Lần đầu tiên thấy lá cờ Đảng xuất hiện, Nhân dân Phú Đức, Phú Túc đồng đổ ra đường bàn tán xôn xao, còn bọn hội tề thì bắt đầu hoang mang lo sợ.
Cuối tháng 10-1931, Nhân dân Phú Đức, Phú Túc tổ chức mít-tinh kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga. Lực lượng biểu tình đã treo cờ đỏ búa liềm trên cột dây thép ở Rau Răm (Phú Phong)5
Bọn chỉ huy ở tỉnh, quận vô cùng cay cú. Hai ngày sau, giặc Pháp từ Mỹ Tho mở cuộc ruồng bố lớn kéo dài suốt bốn ngày đêm qua các làng Phú Đức, Phú Túc, An Khánh, Tân Thạch, Quới Sơn… bắt đi nhiều người. Từ đó, phong trào đấu tranh bị lắng xuống. Những người yêu nước bí mật hoạt động, gầy dựng cơ sở trong Nhân dân.
Tháng 4-1936, Mặt trận Bình dân Pháp giành được thắng lợi trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và lên cầm quyền. Một trong những việc đầu tiên của Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp là ban hành chủ trương cải cách chế độ thuộc địa, trong đó có lệnh trả tự do cho tù nhân chính trị.
Các đồng chí trong chi bộ Đảng địa phương bị bắt hoặc điều lắng năm 1930 trở về Phú Túc, Phú Đức. Các đồng chí Phạm Tấn Mãnh, Nguyễn Văn Song, Ngô Đình Hạo, Lư Sanh Cảnh, Trần Văn Kỷ... đã đến xã hoạt động, vận động Nhân dân đấu tranh giành nhiều thắng lợi. Cũng từ đó, ở Phú Đức - Phú Túc, các tổ chức quần chúng Nông - Thanh - Phụ nhanh chóng được khôi phục, Nhân dân lại đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đòi tăng gía lúa, dừa, đòi hủy bỏ thuế thân.
Cùng với Nhân dân cả nước, Nhân dân Phú Đức sôi nổi tham gia cuộc đấu tranh đòi triệu tập Đông dương đại hội với hàng chục bản kiến nghị có hàng trăm chữ ký gởi chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp được ban hội tề nộp tới toà án và tỉnh trưởng Mỹ Tho.
Để dễ bề hội họp và đi lại hoạt động, chi bộ đã tổ chức “Hội banh”, trong đó có một số cảm tình viên hoạt động tích cực như Lưu Văn Hò, Bùi Minh Bon, Tám Chín.
Cuối năm 1938, Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp bị đổ, bọn cầm quyền nghiêng về phái hữu. Ở Việt Nam, thực dân Pháp lại ra sức đàn áp cao trào cách mạng của Nhân dân ta.
Để tránh khủng bố của giặc, ta không tổ chức các hoạt động có tính bề nổi như mít tinh, treo cờ, rải truyền đơn như năm 1930, chỉ vận động gây ý thức cách mạng, đòi việc lập tự do và bình đẳng giai cấp.
Mặc dù vậy, giữa năm 1939, địch vẫn phát hiện được phong trào, chi bộ Đảng cùng các cảm tình viên. Ngoại trừ đồng chí Nguyễn Văn Tấn không bị giặc bắt, tất cả các đảng viên trong chi bộ đều bị giặc bắt. Trong thời gian bị giam giữ, các đồng chí vẫn giữ được khí tiết, hoàn toàn không khai báo. Đồng chí Nguyễn Văn Tấn ở bên ngoài ngấm ngầm vận động, đa số các đồng chí ta đều được trả tự do. Đồng chí Lê Quang Tăng bị chết trong khám lá Mỹ Tho, các cảm tình viên Bùi Minh Bon, Lưu Văn Hò chết ngoài Côn Đảo. Phong trào cách mạng một lần nữa tạm thời lắng xuống chờ đợi thời cơ vùng dậy.
Tháng 9-1939, cuộc Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Nước Pháp bị Đức tấn công. Ở Việt Nam, thực dân Pháp thẳng tay vơ vét sức người sức của để phục vụ cho chiến tranh. Tại Phú Đức, Phú Túc địch bắt hàng chục thanh niên đưa về Pháp để cầm súng đánh thuê, hành trăm hộ nông dân bị địch cướp đi hàng ngàn giạ lúa. Phong trào cách mạng của Nhân dân Phú Đức như lửa đổ thêm dầu.
Tháng 9-1940, phát xít Nhật đánh chiếm Đông Dương. Thực dân Pháp đầu hàng, chấp nhận làm tay sai cho Nhật. Cả Nhật và Pháp đồng ra sức đàn áp phong trào cách mạng của ta.
Tháng 10-1940, quân đội Thái Lan đánh chiếm vùng biên giới Campuchia. Thực dân Pháp bắt thanh niên Việt Nam đưa đi lính tham gia chiến đấu ở biên giới Thái Lan và Campuchia để bảo vệ quyền lợi cho bọn thực dân Pháp ở Đông Dương. Một số cơ sở ta trong hàng ngũ binh lính đề nghị cho khởi nghĩa. Xứ uỷ Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa.
Để chuẩn bị khởi nghĩa, ta thành lập ban lãnh đạo khởi nghĩa xã gồm các đồng chí:
- Ký Bản (Phú Ninh).
- Bộ Hổ (Phú Tường).
- Ba Xủng (Phú Tường).
- Giáo Nghĩa (Phú Hội).
- Giáo Lành (Phú Lễ).
- Ông Tân Nguyện (ở Mỹ Tho đến).
- Ông Tiếp (ở Mỹ Tho đến).
- Ông Năm Giai (Phú Hội).
Theo kế hoạch, những đồng chí này chuẩn bị đón một lực lượng ở Kim Sơn vượt sông sang Phú Đức để kết hợp khởi nghĩa. Nhưng sáng ngày 23/11/1940 vùng chợ Giữa (Vĩnh Kim, Mỹ Tho) bị địch thả bom, lực lượng ở Vĩnh Kim không sang được và tại Phú Đức bọn lính Pháp đến đóng tại Phú Ninh khoảng 30 tên để ngăn chặn cuộc khởi nghĩa. Các đồng chí ở Phú Đức đã cùng Nhân dân vùng Hòa Quới tổ chức cuộc biểu tình với hàng trăm người kéo đi trên đường liên xã, vừa đi vừa hô khẩu hiệu:
- Đả đảo thực dân đế quốc và phong kiến!
- Đả đảo địa chủ quan làng tay sai của giặc!
Đoàn biểu tình đi tới đâu cờ đỏ búa liềm được treo và dán tới đó. Lực lượng biểu tình khui kho lúa của bọn địa chủ cấp phát cho dân nghèo, Nhân dân vô cùng phấn khởi.
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, thực dân Pháp đàn áp bắt nhiều cán bộ đảng viên và nòng cốt cách mạng
II. KHÔI PHỤC LỰC LƯỢNG, KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1941-1945)
Đầu năm 1941, giặc Pháp từ Mỹ Tho mở cuộc ruồng bố lớn kéo dài suốt 4 ngày đêm qua các làng Tân Thạch, An Khánh, Phú Túc, Phú Đức, bắt đi hàng trăm cán bộ và quần chúng cảm tình cách mạng, trong số đó có đồng chí Lư Sanh Cảnh bị đày ở nhà tù Bà Rá. Một lần nữa phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân dân Phú Đức, Phú Túc bị sa sút nặng nề, ba đoàn thể Nông, Thanh, Phụ hầu như tan rã, đảng viên và cán bộ nòng cốt cũng tạm ngừng hoạt động.
Đầu năm 1943, đồng chí Trần Văn Kỷ liên lạc với đồng chí Bùi Văn Kiệm là bí thư chi bộ ghép Tân Thạch - An Khánh - Phú An Hoà, tiếp nhận chủ trương của Mặt trận Việt Minh, củng cố lại lực lượng. Tại Phú Đức, Phú Túc, các đồng chí Nguyễn Văn Song, Trần Văn Kỷ, Phạm Tấn Mãnh, Ngô Đình Hạo ra sức hoạt động, nhanh chóng khôi phục và phát triển các tổ chức quần chúng Nông – Thanh - Phụ.
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, tình hình trong nước và thế giới hoàn toàn có lợi cho phong trào đấu tranh của Nhân dân ba nước Việt, Miên, Lào. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp lập chính phủ bù nhìn ở Việt Nam do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng.
Ở Mỹ Tho, phát xít Nhật giữ nguyên bộ máy chính quyền cấp tổng, làng, do Pháp lập ra trước đó. Ở Phú Đức, Phú Túc, Cả Chắc còn làm việc, nhưng có tư tưởng chống Nhật và trung thành với Pháp.
Lúc này, ở Phú Đức, nổi lên hoạt động của hội Truyền bá quốc ngữ do thầy giáo Nghĩa phụ trách, nhóm Mác-xít do thầy giáo Kính phụ trách, Đội Thanh niên tuyên truyền do thầy giáo Lành phụ trách... tất cả đều tập trung vận động quần chúng đi theo Đảng, sẵn sàng chờ đợi thời cơ.
Tháng 6-1945, Tỉnh uỷ Mỹ Tho phân công đồng chí Nguyễn Viết Minh đến xây dựng tổ chức Thanh niên Tiền phong ở Phú Đức, Phú Túc. Thanh niên Tiền phong xã do Nguyễn Văn Minh (Chín Minh), Nguyễn Văn Thường (Hai Thường), Nguyễn Ngọc Trương (Sáu Trương) nắm Thanh niên Tiền phong hoạt động rất mạnh, ngày đêm không ngừng luyện tập quân sự, rèn đúc vũ khí.
Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng Liên Xô và đồng minh không điều kiện. Ở Việt Nam, chính phủ Trần Trọng Kim hoàn toàn sụp đổ. Thời cơ khởi nghĩa cướp chính quyền đã đến. Từ Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, mệnh lệnh tổng khởi nghĩa được truyền đi nhanh chóng.
Ngày 19-8-1945, cuộc khởi nghĩa của Nhân dân Hà Nội giành thắng lợi. Ở Mỹ Tho, ngày 22-8-1945, Mặt trận Việt Minh công khai tại tỉnh lỵ.
Theo chỉ đạo của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Mỹ Tho, hàng trăm thanh niên Phú Túc dưới sự hướng dẫn của ông Nguyễn Văn Minh (anh của ông 5 Kiệm), ông Nguyễn Ngọc Trương, Minh Lý, Mười Đàng, Tám Hiền, Năm Phẩm, Ba Hiếu, Hai Hiển, Năm Mão, Út Xã, Tám Kế, Ba Sinh tập trung tại Đình làng Phú Đức vượt sông Rạch Gầm sang Kim Sơn hành quân bộ xuống Mỹ Tho tham dự mit tinh tại sân vận động.
Ủy ban khởi nghĩa và lực lượng Thanh niên Tiền phong xã do ông Mười Ấm dẫn đầu đến nhà riêng của ông Cả Chắc và Hương Sư Huấn bắt cả hai tên, thu hai súng, buộc chúng phải giao nộp nhà việc và toàn bộ sổ sách. Nhân dân Phú Đức, Phú Túc tràn ra đường mừng thắng lợi. Cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi.
Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã kết thúc 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, mang lại độc lập, tự do cho Nhân dân. Mọi người dân Phú Đức từ trẻ đến già đều hân hoan đón mừng tự do độc lập, trân trọng bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được.
(Còn tiếp)