Site banner

Toàn Đảng, toàn dân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Thứ ba, 10 Tháng 6, 2025 - 02:54

Lịch sử đấu tranh Cách mạng xã Phú Đức (1930-2023)

Lịch sử đấu tranh Cách mạng xã Phú Đức (1930-2023)

(tiếp theo kỳ trước)

 

CHƯƠNG II

CHÍN NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP ( 1945 – 1954 )

Nguyễn Ngọc Trương (1950)

I. TÍCH CỰC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG, CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN (1945-1946)

Sau cướp chính quyền, đồng chí Nguyễn Viết Minh thay mặt Quận uỷ Châu Thành - Mỹ Tho quyết định thành lập Uỷ ban cách mạng lâm thời do đồng chí Võ Văn Minh (Sáu Minh) làm chủ tịch, đồng chí Trần Kim Thế (Sáu Thế) làm Trưởng Quốc gia tự vệ cuộc (Công an), đồng chí Nguyễn Văn Thôi (Tám Thôi) làm Ủy viên Quân Sự, đồng chí Trần Văn Xủng (Ba Xủng) làm Trưởng thông tin – Văn hóa - Xã hội.

Trụ sở Ủy ban đặt tại nhà ông Ba Câu (bờ kinh Phú Tường).

Ngày 5-9-1945, Uỷ ban Nhân dân cách mạng lâm thời tổ chức cuộc mít ting có hàng ngàn người tham dự. Đồng chí Nguyễn Viết Minh thay mặt Quận uỷ và Mặt trận Việt Minh công bố quyết định thành lập chính quyền cách mạng xã Phú Đức. Tiếp theo, nhiều công việc cấp bách cũng được tiến hành.

Chính quyền cách mạng công bố huỷ bỏ thuế thân, giảm thuế ruộng đất cho nông dân từ 50 đến 60 giạ/héc-ta (mẫu đất) xuống 10 giạ/héc-ta, xoá bỏ các hình thức cống lễ và lệ tá điền phục dịch với địa chủ, giảm 20% thuế công thương. Sử dụng tạm đình chùa để làm trường học do thầy giáo Lành phụ trách bình dân học vụ với quyết tâm xóa nạn mù chữ từ nội bộ đến Nhân dân, tổ chức và xây dựng lại các chợ, trạm y tế, nhà bảo sanh, sửa chữa lại cầu đường. Phong trào bình dân học vụ sôi nổi. Trên các con đường chính trong làng đều có chặn cây, ai biết chữ mới cho qua.

Chính quyền và Mặt trận Việt Minh vận động Nhân dân tích cực hưởng ứng phong trào “Tuần lễ vàng” (từ ngày 17 đến ngày 24-9-1945), “Tuần lễ đồng thau”, đóng góp được hàng chục lượng vàng, hàng trăm bộ lư, chân đèn, mâm bằng đồng, thau để ủng hộ quỹ độc lập và sản xuất vũ khí. Tiêu biểu có ông Nguyễn Văn Xô (Hộ Xô), bà Trương Thị Truyền (Tư Truyền), ông Huỳnh Văn Hổ (Năm Hổ) đã tích cực đóng góp vàng, thau cho cách mạng.

Ngày 23-9-1945, giặc Pháp đánh chiếm Sài Gòn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ II. Sau đó, chúng lần lượt đánh chiếm Tân An, Mỹ Tho và các tỉnh miền Tây Nam bộ, riêng cù lao An Hoá và tỉnh Bến Tre vẫn còn do Nhân dân làm chủ.

Tại Phú Đức, có sự thay đổi nhân sự. Theo quyết định của Ủy ban Mặt trận Việt Minh huyện, ông Nguyễn Bá Giai làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Việt Minh Phú Đức. Ông Ký Bản làm Chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời thế ông Võ Văn Minh và tiến hành bầu cử chi bộ ghép Phú Đức - Phú Túc. Bầu cử xong, chi bộ ghép Phú Đức, Phú Túc tập trung lãnh đạo Nhân dân bố trí trận địa, tổ chức luyện tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu.

Tại miễu Phú Tường, dân quân huyện mở lớp huấn luyện quân sự. Phú Đức cử 05 người tham gia dự học, đồng thời, tổ chức canh gác dọc theo sông Tiền đề phòng địch xâm nhập, lập các bè chứa chất dễ cháy để đốt tàu giặc theo chiến thuật hỏa công.

Trong lúc áp lực của địch đè nặng tại bờ Bắc sông Tiền, Nhân dân Phú Đức vẫn sôi nổi tham gia bầu cử Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày 6-1-1946). Thắng lợi của cuộc bầu cử đã nói lên tinh thần và ý chí của Nhân dân ta tha thiết tự do độc lập.

Ngày 25-1-1946, gần Tết Nguyên Đán, một đại Đội lính Bắc Phi từ Mỹ Tho dùng tàu đổ bộ đưa đến vàm kênh Điều (ranh giới giữa Phú Túc và An Khánh) để thăm dò lực lượng phòng thủ của ta. Lập tức lực lượng dân quân tự vệ Phú Đức, Phú Túc và An Khánh đốt bè lửa đẩy ra sông; đồng thời, đánh trống và hô xung phong vang dậy khiến quân địch hoảng hốt, vội vàng tháo chạy. Nhân dân Phú Đức, Phú Túc và An Khánh vô cùng phấn khởi, vững lòng tin, tăng sức mạnh, thề quyết chiến đấu tranh không cho địch tái chiếm quê hương.

 II. TIẾN HÀNH KHÁNG CHIẾN (1946 – 1949)

Ngày 8-2-1946 (nhằm ngày mồng 7 Tết Nguyên Đán), thực dân Pháp sử dụng 3 tiểu đoàn thuộc trung đoàn bộ binh thuộc địa cơ giới, có pháo binh, máy bay, tàu chiến và chiến xa yểm trợ từ Mỹ Tho tiến chiếm cù lao An Hoá và tỉnh Bến Tre. Ngay từ sáng sớm, giao tranh bùng nổ tại mặt trận Tân Thạch và mặt trận Giao Hoà. Ở hai mặt trận đó, mặc dù cán bộ, chiến sĩ ta chiến đấu rất dũng cảm, nhưng tương quan lực lượng giữa ta và địch không cân sức nên địch dễ dàng chọc thủng phòng tuyến chiến đấu, tiến vào tỉnh lỵ Bến Tre.

Ngày 10-2-1946, từ tỉnh lỵ Bến Tre, 3 đại đội lính Bắc Phi quay lại Tân Thạch, Phú An Hòa, Tam Phước, đóng 3 đồn tại cầu Ba Lai, ngã tư An Hồ, bến phà Rạch Miễu. Trong thời gian đóng đồn, địch liên tục càn quét khủng bố Nhân dân, bắt đánh đập nhiều người để tìm cán bộ Việt Minh.

Tại Phú Đức, Phú Túc, suốt 04 ngày đầu, tình hình vẫn còn yên ổn. Đến sáng ngày 12-2-1946, giặc Pháp đổ bộ bằng tàu lên vàm Phú Mỹ đi về hướng Tây. Chúng đóng đồn tại đình Phú Hoà, sau đó, tiếp tục đóng đồn Phú Khương. Chúng lập lại Ban tề xã do Cả Khải đứng đầu. Thời gian đóng đồn, địch liên tục ruồng bố bắt tra khảo nhiều người để tìm cán bộ Việt Minh. Từ đó, tất cả lực lượng của ta đều rút vào bí mật, tiếp tục lãnh đạo Nhân dân, giữ vững phong trào.

Đầu tháng 3-1946, đồng chí Nguyễn Văn Dậu là Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chánh quận An Hoá về Phú Đức, Phú Túc với danh nghĩa chính quyền Việt Minh quận Châu Thành - Mỹ Tho, quyết định thành lập Uỷ ban Kháng chiến làng Phú Đức do đồng chí Võ Văn Minh làm Chủ tịch, đồng chí Trần Kim Thế làm Trưởng công an, đồng chí Ba Xủng làm Trưởng ban Thông tin - Văn hoá - Xã hội, bà Ba An phụ trách Hội Phụ nữ Cứu quốc, đồng chí Nguyễn Bá Giai làm Chủ tịch Mặt trận Việt Minh, đồng chí Kỷ làm Xã đội trưởng, đồng chí Hồ Văn Hai (Hai Rẩy) làm Xã đội phó. Lực lượng võ trang xã có 20 cán bộ chiến sĩ được trang bị bằng súng tịch thu của Ban hội tề trong Cách mạng tháng Tám.

Trại giáo hoá của quận An Hóa đóng tại ấp Phú Tường, xã Phú Đức. Đội trừ gian của xã Phú Đức đóng ở nhà bà Tư Truyền, bà Bảy Nhứt,... ấp Phú Tường.

Ngày 16-12-1946, giặc Pháp tấn công miền Bắc, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn.

Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 22-12-1946, Trung ương Đảng ban hành chỉ thị nêu rõ mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập dân tộc và phương châm của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh.

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng, quân dân Phú Đức đẩy mạnh phong trào kháng chiến.

Đầu năm 1947, lực lượng UMDC6 do tên Lê-ông Lơ-roa (Leson Leroy) chỉ huy bắt đầu lấn chiếm 11 làng phía Tây cù lao An Hóa, gây ra hàng loạt vụ thảm sát cực kỳ man rợ. Chỉ trong vòng 7 ngày chúng đã đốt sạch 1.500 ngôi nhà, đình chùa, trường học, nhà bảo sanh giết chết gần 600 thường dân vô tội bằng đủ mọi thủ đoạn giết người kiểu trung cổ như chặt đầu, mổ bụng, moi gan, ném phụ nữ mang thai vào lửa… gieo rắc kinh hoàng trong Nhân dân.

Tại Phú Đức, Phú Túc, lực lượng UMDC lần lượt bắt dân làm xâu, đóng thêm 01 đồn cấp trung đội và 2 đồn cấp tiểu đội, nâng tổng số đồn địch lên 07 đồn với gần 300 tên lính Việt, trong đó có 100 tên lính UMDC rất hung hăng khát máu. Bọn này ban ngày không ngừng ruồng bố bắn giết, ban đêm thường mặc quần áo đen (hắc y) giả danh nghĩa Việt Minh giết người không lưu dấu vết nhằm gây chia rẽ hiểu lầm giữa Nhân dân và cách mạng.

Phong trào cách mạng của Nhân dân Phú Đức, Phú Túc bắt đầu sa sút. Một số cán bộ nòng cốt Nông, Thanh, Phụ bỏ việc, bỏ làng sang Hồ Cỏ (Thạnh Phong huyện Thạnh Phú) hoặc Mỹ Tho tránh né. Trước tình hình đó, Quận ủy An Hóa chủ trương cho chi bộ Phú Đức, Phú Túc, Ủy ban kháng chiến, Đội công an trừ gian và đội võ trang tạm thời tránh né bảo toàn thực lực. Tại Phú Đức, còn lại một ít cán bộ công khai bám trụ hoạt động như: Ba Xủng, Mười Vân, Hồ Thị Một, Tư Sự, Tư Diễm, Đỗ Thị Đước, Nguyễn Văn Khuê (Tư Khuê), Hồ Văn Hai (Hai Rẩy), Năm Thiện, Đỗ Ngọc Nhứt (Tư Nhứt), Nguyễn Văn Bi (Hai Bi), Năm Minh, Nguyễn Ngọc Trương (Sáu Trương), Đường, Sương, Bóc, So, Năm Tài, Sáu Bảo.

Ngày 23-9-1947, bọn UMDC mở cuộc càn lớn vào các làng Tân Thạch, An Khánh, Phú Đức gây nên cuộc thảm sát tại cồn Thùng, giết hàng trăm người dân vô tội.

Qua hơn một năm tiến hành kháng chiến, chi bộ đã kết nạp nhiều đảng viên, số lượng đảng viên Phú Đức, Phú Túc tăng lên. Năm 1947, Huyện uỷ cho tách chi bộ Phú Túc - Phú Đức ra thành 2 chi bộ: chi bộ Phú Túc và chi bộ Phú Đức để thuận lợi cho lãnh đạo phong trào kháng chiến của mỗi xã. Chi bộ Phú Đức có các đảng viên: Nguyễn Ngọc Trương (con ông Ký Bản), Năm Thanh, Nguyễn Văn Nam (Hai Nam), Nguyễn Thị Ngọc Anh, Phạm Tấn Mãnh, Đỗ Văn Hương, Đỗ Ngọc Nhứt, Trần Kim Thế, Đỗ Ngọc Báu do Năm Thanh làm Bí thư. Điểm họp của chi bộ tại nhà bà Tư Xuyến (ấp Phú Ninh). Các ban trực thuộc Uỷ ban và các đoàn thể được củng cố. Xã đội do Nguyễn Văn Đường (Ba Dương) làm Xã đội trưởng. Ban Công an do Đỗ Văn Liễu làm Trưởng ban. Uỷ ban Mặt trận Việt Minh xã do Lê Phước Hên làm Chủ nhiệm. Hội Phụ nữ xã do Nguyễn Thị Ngọc Anh làm Hội trưởng. Hội Liên Việt do Đỗ Ngọc Bửu làm Hội trưởng.

Đầu năm 1948, theo chỉ đạo của đồng chí Năm Thanh, Bí thư chi bộ, đồng chí Trần Kim Châu cùng đồng chí Hồ Văn Hai đưa lực lượng về chợ Phú Đức, nhưng bị lộ bí mật và bị Cả Chắc dẫn lính chặn lại không vào được.

Khoảng năm 1948, đồng chí Bảy Nhành (anh Mười Biếu), Hai Nam tổ chức cô Sáu Thủ Trị móc nối anh Hanh lính đồn Phú Ninh. Sau đó, bằng kết hợp lực lượng vũ trang và cơ sở nguỵ địch vận (anh Hanh) ta lấy đồn Phú Ninh.

Tháng 2-1948, một bộ phận Vệ quốc Đoàn Bến Tre do đồng chí Phan Thanh Nhàn chỉ huy, sau khi đánh diệt 4 tên lính Pháp thu 3 súng tại mặt trận đình Tường Đa. Trên đường rút về Phú Đức, lực lượng ta gặp một đại đội địch tại ngã ba pháo đài, bộ đội ta tổ chức bao vây tiêu diệt gọn một trung đội lính Pháp thu thêm sáu súng (trận này ta hi sinh một chiến sĩ người Nhật).

Trong thời gian này, lực lượng ta phục kích đánh bọn lính Một Mì tại mé trên cồn Lớn (ấp Phú Ninh), diệt 1 tên lính, tên Một Mì bị thương. Ban trừ gian đã diệt Quản Lư.

Đến cuối năm 1948, bọn UMDC mở cuộc ruồng lớn vào Phú Đức, Phú Túc đóng một đồn cấp trung đội tại ngã ba Cây trôm là điểm cuối cùng trong chương trình bình định lấn chiếm của chúng tại khu vực phía Tây cù lao An Hoá.

Từ đó, cả Quận uỷ An Hoá7, Quận uỷ Sóc Sãi và các lực lượng cách mạng phía Tây cù lao An Hoá và phía Tây cù lao Bảo đều lần lượt rời khỏi địa bàn đến cù lao Minh, một số chạy về Nhơn Thạnh rồi từ Nhơn Thạnh đến Bình Khánh (Mỏ Cày), Thạnh Phong (Thạnh Phú), một số ít đến khu vực phía Tây quận Châu Thành, Mỹ Tho. Cuộc chiến đấu của Nhân dân Phú Đức, Phú Túc bước vào giai đoạn khó khăn gian khổ.

Tháng 4-1949, với tinh thần quyết tâm tiêu diệt ác ôn, đồng chí Ngô Đình Hạo và đồng chí Nguyễn Văn Thiện từ cù lao Minh vượt sông Hàm Luông sang cù lao Bảo trở về Phú Đức, Phú Túc bí mật đột nhập vào đồn Miễu Phú Hoà giết chết tên Hương chủ Tào và đâm trọng thương tên Hương quản Ngọc.

Tháng 6-1949, đồng chí Ngô Đình Hạo và tổ quân báo Lách - An - Sóc kết hợp cơ sở nội tuyến diệt đồn Phú Khương, thu 9 súng.

III. BÁM TRỤ CHUYỂN VÙNG, TIẾN LÊN HƯỞNG ỨNG CHIẾN DỊCH ĐÔNG XUÂN (1950-1954)

Đầu năm 1950, chi bộ xã thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ Bến Tre “Chi bộ ly xã trở về xã”. Việc trước mắt là tuyển chọn số đồng chí trẻ, khoẻ, trung kiên, dũng cảm lập kế hoạch phân công trở về địa phương bám trụ, số đồng chí già yếu được chuyển đến vùng giải phóng Khu IX để được phân công công tác khác. Lúc này chi bộ Phú Đức được củng cố, đồng chí Nguyễn Ngọc Trương được chỉ định làm Bí thư thay đồng chí Năm Thanh đã hy sinh.  Đồng chí Nguyễn Trung Huê (bí danh Trung Quốc) làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chánh xã. Và như hầu hết các chi bộ ở cùng khu vực, khi trở về bám trụ, đảng viên chi bộ Phú Đức phải trải qua rất nhiều khó khăn, tổn thất. Đồng chí Phạm Tấn Mãnh là Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chánh xã khi về công tác tại địa phương bị giặc bao nhà nuôi chứa, bắn bị thương, trói đem về đồn bắn chết vào ngày 25-1-1950. Tuy nhiên với tinh thần kiên quyết bám trụ, đảng viên, chiến sĩ kiên quyết bám đất, bám dân dù phải hy sinh. Nhân dân đã làm hầm bí mật nuôi chứa cán bộ, đảng viên và chiến sĩ.

Giữa năm 1950, Quận uỷ Sóc Sãi đã chỉ định đồng chí Tư Xuyến làm Bí thư chi bộ Phú Đức thay đồng chí Nguyễn Ngọc Trương. Đến cuối năm 1950, có nhiều cơ sở cũ được tổ chức lại, Nhân dân bắt đầu có hành động đấu tranh với địch đòi giảm tô giảm thuế. 

Giữa năm 1952, huyện Châu Thành, Mỹ Tho tổ chức 01 trung đội võ trang đóng tại Kim Sơn (Phú Phong, tỉnh Mỹ Tho). Trung đội võ trang này do đồng chí Tư Tấn làm Trung đội trưởng, đồng chí Tám Sủng làm Trung đội phó. Tham gia trong trung đội võ trang này có các đồng chí: Ba So, Đường, Sương, Bóc, Năm Thiện, Năm Tào, Năm Bảo, Sáu Trương...

Tháng 10-1952, dưới sự chỉ huy của Tư Tấn và Tám Sủng, trung đội đưa lực lượng về cồn Dơi làm căn cứ cách mạng.

Tên Cả Chắc biết được đã đưa quân từ bót Cả Chắc dưới sự hướng dẫn của tên Chợ (tên Chợ là liên lạc của Bí thư chi bộ Đảng xã Phú Túc lúc bấy giờ đã đầu hàng địch) tiến vào đánh lực lượng ta ở cồn Dơi. Trung đội võ trang ta đã chiến đấu từ 14 giờ đến 17 giờ chiều và giữ vững trận địa.

Để tiếp tục ý đồ đánh tiêu diệt lực lượng võ trang của ta. Địch đã dùng 02 tàu chiến cặp 02 bên sườn cồn Dơi bắn xả vào và cho quân đổ bộ từ đuôi cồn tiến lên đầu cồn. Từ trên đầu cồn giáp Tân Phú, quân địch càn xuống đuôi cồn, ép quân ta vào giữa cồn. Cuộc chiến đấu kéo dài trên 02 tiếng đồng hồ. Lực lượng và vũ khí ta ít hơn địch, chiến đấu rất khó khăn. Để bảo toàn lực lượng, đồng chí Tư Tấn ra lệnh cho lực lượng ta bảo vệ vũ khí, lặn vào đất liền, còn đồng chí Tư Tấn và đồng chí Hai Nam chiến đấu cầm cự với địch, đến gần 18 giờ chiều, địch bắn chết 03 đồng chí (anh Xiếu ở Tiên Long, anh Tư Tấn, anh Hai Nam) và lấy đi 02 khẩu súng (01 khẩu FM đầu bạc và 01 khẩu tôm xông).

Hồ Văn Hai (10/1952 - 01/1953)

Đồng chí Tư Tấn hy sinh, đồng chí Tám Sủng lên thay làm Trung đội trưởng trung đội võ trang, đồng chí Hồ Văn Hai làm Xã đội trưởng thay đồng chí Hai Nam.

Các đồng chí bí thư chi bộ liên tiếp hy sinh, đồng chí Nguyễn Ngọc Trương hy sinh, đồng chí Tư xuyến thay làm Bí thư lại hy sinh, đồng chí Hồ Văn Hai làm Bí thư, được vài tháng, huyện cử đồng chí Hai đi học, đồng chí Đỗ Thị Đước được chỉ định làm Bí thư. Sự lỗ lực, hi sinh của cán bộ đảng viên đã mang lại kết quả đáng kể, làm chuyển biến tình hình trong xã. Đến cuối năm 1952, phong trào cách mạng Phú Đức dần dần khôi phục. Nhiều cán bộ nòng cốt và quần chúng cách mạng phải bỏ làng trốn tránh bọn UMDC lần lượt trở về tiếp tục hoạt động. Gia đình binh sĩ kêu gọi chồng, con, em bỏ hàng ngũ giặc hoặc chấp nhận làm nội tuyến, sẵn sàng chờ đợi thời cơ phối hợp tấn công địch. Các đồn bót giặc ở trong xã liên tục bị uy hiếp, một số người yêu nước trong Ban Hội tề tìm cách gởi thư ra ngoài liên lạc với ta.

Đỗ Thị Đước (01/1953 - 1959)

Tháng 01-1954, cùng với thế trận tấn công tại các xã lân cận, chi bộ Phú Đức lãnh đạo lực lượng du kích cùng Nhân dân xây dựng nhiều phòng tuyến chiến đấu, liên tục bao vây đồn giặc. Khí thế cách mạng vô cùng sôi nổi.

Giữa lúc quân và dân Phú Đức đang hăng hái xây dựng lực lượng cách mạng và không ngừng bao vây đồn địch, thì tại mặt trận Điện Biên Phủ quân chủ lực của ta toàn thắng, bắt sống tướng De Castri và toàn bộ ban tham mưu của hắn.

Ngày 20-7-1954, tại Genève, hiệp định đình chiến được ký kết. Nhân dân phấn khởi đón mừng hòa bình sau 9 năm kháng chiến chịu nhiều gian khổ hi sinh.

Trong khi Nhân dân cả nước ta vui đón hòa bình và nghiêm chỉnh thi hành hiệp định thì Mỹ nhảy vào miền Nam thay chân Pháp. Từ đó, Ngô Đình Diệm dựa vào thế lực và tiền đôla của Mỹ, dựng lên ở Nam bộ bộ máy ngụy quyền thân Mỹ, công khai tuyên bố không thi hành hiệp định, không có tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Cuộc chiến đấu của Nhân dân ta lại bước vào thời kỳ mới. 

(Còn tiếp)

Ban chấp hành Đảng bộ xã Phú Đức