Lịch sử đấu tranh Cách mạng xã Phú Đức (1930-2023)
CHƯƠNG III
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
(tiếp theo kỳ trước)
III. KIÊN CƯỜNG ĐÁNH MỸ, DIỆT NGỤY, HƯỞNG ỨNG CUỘC TẤN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
Để cứu nguy quân ngụy đang đà sụp đổ, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ, ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu cùng vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam Việt Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
Quán triệt các chỉ thị nghị quyết của trên, Tỉnh ủy Bến Tre mở đợt chỉnh huấn trong toàn Đảng bộ, toàn quân nhằm giáo dục nâng cao lập trường cách mạng, nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng và tư tưởng tiến công, nâng cao quyết tâm đánh thắng Mỹ xâm lược.
Từ năm 1965-1967, đồng chí Việt Hòa làm Bí thư Đảng ủy xã. Từ năm 1967-1970, đồng chí Nguyễn Anh Hoàng (Tư Hoàng) làm Bí thư. Đảng ủy tổ chức học tập, chỉnh huấn trong cán bộ đảng viên và quần chúng, nâng cao quyết tâm bám trụ chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược.
Trong xã, phong trào thanh niên tình nguyện đi bộ đội, thanh niên xung phong diễn ra sôi nổi. Ấp nào cũng có thanh niên nam, nữ tình nguyện đi bộ đội, thanh niên xung phong như chị Tư Bo, chị Tư Nhãn, chị Mén, anh Sáu Quang, anh Ngay. Có cả những thiếu niên cũng tình nguyện đi Thanh niên xung phong. Một khí thế hồ hởi thi đua giết giặc cứu nước dâng lên mạnh mẽ trong lòng người dân Phú Đức…
Thời gian này, đường dây liên lạc của Giao bưu tỉnh do đồng chí Chín Cửu, Chín Trị phụ trách đóng ở Phú Túc (đường dây này đặt ở Phú Túc từ năm 1961 đến năm 1964) bị địch đánh phá, nên đến đóng tại ấp Phú Lễ (Phú Đức). Đường dây có nhiệm vụ: đưa bộ đội, chuyển hàng, cán bộ cao cấp. Nhiều gia đình ở xã Phú Đức như vợ chồng chị Sáu Thâu,…cho mượn xuồng, ghe máy để cán bộ phụ trách đường dây có phương tiện đi lại, hoạt động. Đặc biệt là vận chuyển vũ khí bằng ghe 2 lường (lường trên chở cá tra bè, lường dưới chở vũ khí). Năm 1972, ghe chở vũ khí bị tàu địch phát hiện. Để bảo vệ đường dây, ta tuôn số vũ khí xuống sông, khi nước rút, Nhân dân cồn Dơi (Phú Ninh) lặn mò vớt vũ khí lên, lấy lục bình che kín đáo, rồi giao lại cho bộ đội đủ súng và đạn dược.
Năm 1965, địch dùng tàu chiến chở lính tiểu đoàn hành quân càn quét phong tỏa đường giao bưu của ta từ mé sông ấp Phú Lễ đến cồn Dơi (Phú Ninh). Lợi dụng địa hình rậm rạp, bố trí dày đặc bãi mìn, bảng tử địa, du kích chống trả trong một ngày 3 lần, bẻ gãy trận càn của địch, ta diệt và làm thương 19 tên. Thắng trận này ta giữ vững hoạt động đường dây.
Năm 1966, Mỹ khởi công xây dựng căn cứ quân sự Bình Đức, Đồng Tâm (Định Tường). Phú Đức trở thành vành đai trắng. Quân Mỹ ở căn cứ Bình Đức thường xuyên dùng tàu đổ một trung đội lính sang Phú Đức. Hàng ngày, Phú Đức phải hứng chịu hàng loạt bom, pháo của địch. Các loại tàu chiến đi tuần tra trên sông rạch, có cả hai tàu Mỹ (hạm đội nhỏ trên sông) đậu ở ngoài Vàm Bà Hét bắn vãi đạn như mưa lên bờ sông Phú Đức. Ghe thuyền đi lại trên sông đều bị chúng chặn lại kiểm soát, không cho hàng hóa lọt vào vùng giải phóng. Pháo từ căn cứ Bình Đức bắn sang Phú Đức hàng chục quả (dân thường gọi là dàn nhạc Tân Tây Lan). Phú Đức là vùng tự do oanh kích, các loại máy bay khi đi bỏ bom các nơi còn sót lại trút bỏ bom xuống Phú Đức trước khi về sân bay. Ban ngày trực thăng không vận, thường mỗi lần có 5 chiếc dàn thành hàng: một chiếc đầu láng (HU1A) đi trước, kế đó là 2 chiếc cá lẹp, theo sau 2 chiếc cá lẹp là bù nốc, hễ thấy một điểm nào tình nghi có cán bộ đóng, căng chòi, hầm bí mật liền vây lại đánh phá; ban đêm trực thăng soi đèn pha sáng rực, sẵn sàng bắn vào mục tiêu khi phát hiện. Máy bay đầm già (máy bay trinh sát L19), cầu tiêu (T28) thường xuyên bay lượn trên bầu trời, nếu phát hiện có người, có khói, ghe thuyền là bắn chỉ điểm để máy bay khác đến ném bom. Máy bay đầm già, trực thăng còn thả, rải máy thu tiếng động xuống vùng giải phóng Phú Đức, khi nào có tiếng người, tiếng bộ đội hành quân là phát ra tín hiệu để máy bay hoặc pháo binh bắn vào nơi đó. Chúng còn cho máy bay rải chất độc hóa học xuống vùng giải phóng hủy diệt hoa màu, cây trái và con người. Cường độ chiến tranh ngày càng ác liệt, tính mạng của người dân bị đe dọa, sản xuất và đời sống của Nhân dân trong vùng giải phóng gặp nhiều khó khăn, đình trệ. Việc nấu ăn phải bí mật, không để địch phát hiện lửa, khói là mục tiêu để bom, pháo trút xuống. Khi ra làm đồng, làm vườn phải đề phòng bom, pháo, trực thăng vây bắt. Nhiều cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân hy sinh, thương tật (Trong kháng chiến, Nhân dân xã đã đóng góp nhiều ngày công xây dựng 4 nghĩa trang, mai táng 157 liệt sĩ).
Trước tình hình bom đạn ác liệt, một số dân Phú Đức tản cư qua cồn Dơi, Tân Phú (Bến Tre), phường 6 (Mỹ tho). Trường học được dời ra vùng ven, cồn Dơi.
Đảng ủy lãnh đạo Nhân dân củng cố hầm chống bom đạn trong nhà, làm trảng xê kiên cố để tránh bom đạn, bố trí lại sản xuất tránh bom, pháo của địch, tổ chức cấp cứu những người bị nạn. Lực lượng du kích đào đắp công sự, xây dựng hầm hào chiến đấu, gài trái tại những nơi địch thường xâm nhập. Vận động Nhân dân cắm chông sào ở ngoài đồng đề phòng máy bay địch có thể đổ quân.
Để mừng lễ Phật đản, ngày 14-4 âm lịch năm 1967 (nhằm ngày 23-4 dương lịch 1967), đồng bào tổ chức liên hoan văn nghệ, trong lúc đó tên Bé Hoàng dẫn bọn biệt kích vào bắt một số người dân. Du kích xã bao vây bắn chết tên Bé Hoàng, Đội trưởng Đội biệt kích, bắn bị thương tên Huy. Diệt được tên Bé Hoàng ác ôn, Nhân dân các xã Phú Đức, Phú Túc, Quới Thành và Tân Phú vô cùng phấn khởi.
Tháng 4-1967, được một người giữ vịt tên Bảy Liễn báo cáo có 3 tên lính Mỹ ở Phú Đức, tổ du kích ấp Phú Lễ cùng địa phương quân huyện Châu Thành (Bến Tre) phục kích đánh đại đội lính Mỹ, ta diệt hơn 01 tiểu đội, thu 01 súng AR 15. Đây là trận đánh Mỹ đầu tiên của huyện, chứng tỏ khả năng chiến đấu của quân dân huyện Châu Thành có thể đương đầu với quân Mỹ, củng cố thêm quyết tâm chiến đấu của các chiến sĩ ta. Với thành tích này, đồng chí Hồ Văn Được và đồng chí Ba Châu được tuyên dương dũng sĩ diệt Mỹ, Đội du kích xã được Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tặng Huân chương chiến công hạng 3. Qua trận đánh này, du kích xã rút ra kinh nghiệm ban đầu: địa hình thuận lợi cho phục kích, địch xoay trở chậm, ta có thể bám đánh địch, gây thương vong cho chúng. Sau đó 5 ngày, phát huy thắng lợi, tổ trinh sát kết hợp với tổ du kích sử dụng súng CKC phục kích ở mé sông, dùng súng CKC bắn chết 01 lính Mỹ, chìm một bobo. Phong trào tấn công địch lên mạnh. Đêm 15-5-1967, đội du kích xã bao vây, chặn cắt đường rút của bọn biệt kích Hàm Long, diệt 3 tên. Cuối năm 1967, 3 lần lính Mỹ dùng tàu đổ quân Mỹ vào ấp Phú Lễ, du kích dựa vào bãi chông, bãi mìn, ong phục kích ở bụi rậm, địch đổ bộ đụng bãi mìn chết và bị thương 15 tên, chúng phải rút quân.
Bom đạn của Mỹ liên tục gây ra nhiều cuộc thảm sát tại Phú Đức. nhiều cuộc đấu tranh khiêng xác nạn nhân bị bom đạn đến các cấp chính quyền tỉnh, quận được tổ chức như cuộc đấu tranh khiêng xác con ông Ba Hán bị trúng pháo chết cả 5 người một lượt, gia đình ông Bảy Vinh bị bỏ bom, ông thợ Bảy và các con bị trực thăng soi…vạch trần tội ác của Mỹ ngụy, cô lập chúng. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh chính trị là mẹ Hai (ấp Phú Bình), mẹ Ba, chị Ngọc Anh (Phú Hội), bà Hai Phải, bà Tư Ú, thầy chùa Tôn (Trưởng ban đấu tranh công khai của xã), ông Năm Hoành (trụ trì chùa Bửu Đức). Nhiều chị bị địch bắt cắt tóc, phơi nắng nhưng không hề nao núng.
Tháng 7-1967, bọn biệt kích Mỹ thảm sát một gia đình ở ấp Phú Hội. Nhân dân dùng ghe chở xác và những người bị thương ra đồn địch đấu tranh. Thấy tàu Mỹ đến, Nhân dân đấu tranh với lính Mỹ. Lính Mỹ dưới tàu chở số người bị thương đưa đi chữa trị.
Cuối năm 1967, lực lượng ta tấn công uy hiếp đồn Cồn Lác, bọn lính giữ đồn hoảng sợ chạy qua bót cầu sắt Quới Thành.
Tháng 12-1967, bộ chính trị họp ra Nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Tiếp thu sự chỉ đạo của trên, Tỉnh ủy chỉ đạo các huyện, xã, lực lượng vũ trang chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân.
Theo sự chỉ đạo của trên, Đảng ủy và Ban chỉ huy Xã đội đã lựa chọn bổ sung người vào đột du kích xã, biên chế gần 1 đại đội. Xã hình thành ba lực lượng dân công: dân công hậu tuyến tải đạn mỗi ngày; trung tuyến làm nhiệm vụ nuôi dưỡng thương binh, đưa chiến thương; dân công hỏa tuyến. Khí thế hừng hực, già, trẻ, bé, lớn đều tình nguyện đi dân công. Hàng đêm, có từ 500-700 người đi dân công, tiếp lương, tải đạn, chở người bị thương, tử thương trong Xuân Mậu Thân.
Tháng 1-1968, địch rải chất độc hóa học từ An Khánh đến xã Phú Đức. Nhân dân đấu tranh chống địch rải chất độc hóa học.
Có lần, Ban đấu tranh chính trị xã tập hợp đồng bào trong xã kéo lên tỉnh đấu tranh. Tới ngã tư Tuần Đậu, đoàn biểu tình bị bọn lính chận lại, lùa xuống ruộng, bắt phải chỉ những người lãnh đạo cuộc biểu tình. Quần chúng bảo vệ những người lãnh đạo cuộc biểu tình, không cho địch đàn áp. Khi bọn lính vừa ra khỏi, dân nhảy lên bờ. Bọn lính xông vào bắt một số chị em phụ nữa đưa về chi khu Trúc Giang để hãm hiếp. Các má ùa vào chi khu bảo vệ, lôi kéo, giành giật các chị.
Tháng 7-1968, một đại đội lính Mỹ đổ quân xuống gò Ông Bếp (Phú Long), du kích phục kích diệt 4 tên, bị thương 5 tên, chặn đứng cuộc hành quân của địch.
Trong thời gian này, du kích Phú Đức phối hợp với du kích Phú Túc và địa phương quận huyện tập kích bọn biệt kích Mỹ đóng tại nhà ông Tư Thời giáp ranh giữa Phú Túc - Phú Đức, diệt và làm thương 18 tên. Theo dõi quy luật địch, ta thiết kế đầu đạn 105 ly gài trên ngọn dừa, có cắm cờ Mặt trận, trực thăng đến gỡ bị nổ tan xác.
Tháng 10-1968, một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 9 Mỹ hành quân từ rạch Đình đến Phú Ninh. Du kích xã dựa vào địa hình, bãi chông đánh tan cuộc càn của địch, ta diệt 3 tên, bị thương 9 tên, thu 2 AR 15 và 360 viên đạn.
Tháng 11-1968, du kích kết hợp địa phương quân huyện đánh tiểu đội Mỹ đi càn ở Phú Hội, diệt 9 tên.
(còn tiếp)