Site banner

Toàn Đảng, toàn dân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Thứ bảy, 7 Tháng 6, 2025 - 10:39

Kỳ 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và trọng dụng trí thức

Chủ tịch Hồ Chí Minh và những tư tưởng trọng trí thức, trọng nhân tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, một người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam với rất nhiều những tư tưởng vượt thời đại dẫn lối, chỉ đường cho hôm nay và mai sau. Kể từ khi còn bôn ba tìm đường cứu nước ở nước ngoài đến khi về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là 24 năm trên cương vị người đứng đầu Chính phủ và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến trí thức và vấn đề trí thức. Tư tưởng về trí thức của Hồ Chí Minh đã được hình thành từ khi Người còn hoạt động ở nước ngoài và được thể hiện rõ nhất sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là trong việc thành lập các Chính phủ lúc bấy giờ. Từ tư tưởng trọng dụng trí thức, Hồ Chí Minh đã quy tụ xung quanh mình rất nhiều những trí thức nổi tiếng toàn tâm, toàn ý vì đất nước và nhân dân. Thực hiện tư tưởng trọng dụng trí thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thu hút và trọng dụng đội ngũ này. Trong bối cảnh mới hiện nay, tư tưởng trọng dụng trí thức, trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần tiếp tục được phát huy và thực hiện tốt hơn nữa.

Kỳ 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và trọng dụng trí thức

Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình trí thức. Thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là Cụ Nguyễn Sinh Sắc. Cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng năm Tân Sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901). Trong lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam, kể từ khoa thi lần thứ nhất năm Ất Mão niên hiệu Thái Ninh thứ 4 triều Lý Nhân Tông (1075 đến khoa thi Nho học cuối cùng năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ 4 (1919), cả nước lấy đỗ được 2.898 người từ Phó Bảng trở lên, một trong số đó có cụ Nguyễn Sinh Sắc.

Bản thân Hồ Chí Minh cũng là một trí thức vì Người đã từng học Trường Quốc học Huế; khi ra đi tìm đường cứu nước, ở Pháp, Người đã viết thư xin vào học Trường Thuộc địa của Pháp, bởi “Khoa học thì không cần có Tổ quốc, chỉ có nhà khoa học mới cần có Tổ quốc của mình” (Loui Pasteur). Sau này, Người cũng đã từng là nghiên cứu sinh ở Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Mặc dù con đường học tập bị dang dở do yêu cầu của hoạt động cách mạng, song xét về mọi khía cạnh và theo những quan niệm hiện nay về trí thức, thì Hồ Chí Minh là một trí thức với đúng nghĩa của từ này. Có lẽ vì vậy mà ngay từ khi còn hoạt động ở nước ngoài cho đến khi về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam, người luôn luôn quan tâm đến vấn đề trí thức và trọng dụng trí thức.

Ngay khi nước nhà mới giành được độc lập, để tìm người tài đức ra gánh vác việc nước, Hồ Chí Minh đã viết bài Nhân tài và kiến quốc đăng trên Báo Cứu quốc ngày 14-01-1945, Người viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều[1]”. Sau cách mạng Tháng 8-1945, mặc dù trong bối cảnh đất nước vô vàn khó khăn thách thức của những công việc cần kíp giải quyết sau ngày độc lập, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến việc mời các chuyên gia, các nhà khoa học người Việt Nam và cả nước ngoài về Việt Nam cộng tác, làm việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nguyên lý cần có cho sự phát triển của đất nước sau khi giành được độc lập: "Chúng tôi cần có tư bản, trí thức và lao động... chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước cộng tác thật thà với chúng tôi.[2]". Cũng vậy, trong cuộc trả lời nhà báo nước ngoài này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội và nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài[3]”.

Ngày 22-11-1946, trong tình thế nước sôi lửa bỏng của đất nước khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, trên Báo Cứu quốc số 411 đã đăng Thông lệnh Tìm người tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ[4]". Khi phát biểu nói chuyện trong buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân chính ở cơ quan Trung ương ngày 06-02-1953, khi có những ý kiến cho rằng Chính phủ không trọng dụng trí thức, Hồ Chủ tịch đã giải thích rõ rằng đó là thành kiến không đúng và Người cho rằng có một số anh em trí thức cũng hiểu như vậy, theo Người, những đảng cách mạng càng cần trí thức vì: “muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân dân thì phải cần thầy thuốc; muốn phát triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư,...[5]”. Tuy nhiên, Người cũng khẳng định trí thức đáng trọng phải là trí thức “hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân[6]”. Mặc dù rất tôn trọng và đánh giá cao vai trò của trí thức, nhưng Hồ Chí Minh là một nhà thực hành và lấy thước đo công việc cụ thể làm đầu, nên Người đề cao và đánh giá những trí thức thực học, thực nghiệp, tức là có những đóng góp thiết thực, cụ thể cho đất nước, cho nhân dân và cho xã hội bằng những sáng kiến, công trình. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người khẳng định: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một người học xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải biết đem trí thức đó áp dụng vào thực tế[7]”. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh trùng hợp gần như hoàn toàn với tư tưởng của Fukuzawa Yukichi, một trong những nhà tư tưởng được xem là người khai sáng ra nước Nhật Bản hiện đại. Trong tác phẩm nổi tiếng Khuyến học, Fukuzawa Yukichi cho rằng trí thức là người học, nhưng quan trọng nhất không phải học theo lối “từ chương, sách vở” mà phải học “những môn thiết thực cho cuộc sống”. “Dù có thuộc làu truyện xưa tích cũ nhưng không biết giá một kilôgam gạo, một mớ rau là bao nhiêu. Dù có hiểu biết cặn kẽ kinh điển Trung Hoa nhưng không biết làm thương mại, không biết giao dịch làm ăn.Những người ấy chỉ là cái tủ kiến thức suông[8]”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nhân tài nước ta dù chưa nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng, thì nhân tài ngày càng phát triển, càng nhiều thêm. Người cũng khẳng định việc dùng nhân tài không nên quá khắt khe, miễn không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được. Người cho rằng những người “tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy[9]”. Người còn căn dặn có rất nhiều nhân tài ngoài Đảng và chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước.

 

 


[1] Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4, tr. 99

[2] Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 5, tr. 156

[3] Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 5, tr. 156

[4] Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4, tr. 451

[5] Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 7, tr. 32-33

[6] Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 7, tr. 33

[7] Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 5, tr. 235

[8] Fukuzawa Yukichi (2014), Khuyến học, Nxb Thế giới, tr. 43

[9] Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4, tr. 39

 

Nguồn Internet.