Bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt Nam
Ngày 5-6-1911, tại thành phố Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam khi các con đường cứu nước của các bậc tiền bối hoàn toàn thất bại. Sau 13 năm đi nhiều quốc gia và các châu lục, bắt gặp “cẩm nang thần kỳ” là Chủ nghĩa Mác-Lênin, ngày 11-11-1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, Trung Quốc. Tại đây, Người đã bắt đầu chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng, tổ chức, cán bộ cho sự ra đời một tổ chức đảng cách mạng Việt Nam.
Kỳ 1: Quảng Châu-nơi ươm mầm cách mạng Việt Nam
Lịch sử cách mạng Việt Nam có những sự trùng hợp thật kỳ lạ: Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, tổ chức cách mạng đầu tiên của những người theo đường lối cộng sản ra đời tại Quảng Châu, Trung Quốc; Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tại Hương Cảng (Hồng Kông, Trung Quốc); Đại hội lần thứ Nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam (khi ấy mang tên là Đảng Cộng sản Đông Dương) tổ chức tại Ma Cao, Trung Quốc.
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 và đến năm 1919 tại Pháp, thay mặt Hội (có lúc gọi là nhóm) những người An Nam (Việt Nam) yêu nước, nhóm đã gửi tới Hội nghị Versailles Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam, còn gọi là “Yêu sách của nhân dân An Nam” (bản tiếng Pháp viết là: Revendications du peuple annamite). Thỉnh nguyện thư này được ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Khi thay mặt ký gửi bản yêu sách này của nhân dân An Nam, Nguyễn Tất Thành vẫn chưa thật sự bắt gặp Chủ nghĩa Mác-Lênin dù trước đó hơn 2 năm, Cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại theo con đường của Lênin đã thành công ở nước Nga, đã “biến người nô lệ thành người tự do”. Nhắc lại chi tiết này để thấy rằng tìm con đường đi cho một con người, một cuộc đời đã rất khó khăn, nói gì đến việc tìm đường đi cho cả một dân tộc.
Tháng 7 năm 1920, khi đọc được Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc mới xác định rõ con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, đó là “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, dưới sự chỉ lỗi, đưa đường của một hệ tư tưởng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy những chỉ dẫn cho con đường cứu nước của cách mạng Việt Nam.
Lịch sử đôi khi có những câu chuyện thật thú vị mà câu chuyện Nguyễn Ái Quốc đồng sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 là câu chuyện đầy thú vị. Tháng 12-1920, tại Paris, Nguyễn Ái Quốc đã cùng một số đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp đứng ra thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một thanh niên ở một nước thuộc địa, Nguyễn Tất Thành quyết định đi sang chính đất nước đang đô hộ dân tộc mình.
Sở dĩ Nguyễn Tất Thành quyết định đi sang nước Pháp, một nước đang đô hộ Việt Nam bởi lý do mà sau này Người đã kể lại với nhà thơ Nga nổi tiếng O.E. Mandelstam vào năm 1923: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe 3 chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Ở tuổi 13, cậu bé Nguyễn Sinh Sinh Cung đã nghe thấy những từ: Tự do-Bình Đẳng-Bác ái. Từ câu tuyên ngôn nổi tiếng ra đời trong cách mạng Pháp ấy, Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi sang nước Pháp để xem ẩn đằng sau câu khẩu hiệu nổi tiếng ấy là gì? Tại sao một quốc gia có những con người vĩ đại, những người đã làm nên cuộc cách mạng vĩ đại và cho ra đời câu tuyên ngôn nổi tiếng ấy lại cũng chính là quốc gia của những người đang cai trị và bóc lột tàn tệ nhân dân của Người. Liệu những người Pháp ở chính quốc có khác những những người Pháp thực dân ở Đông Dương khi ấy?
Với sự kiện đồng sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc không chỉ trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên mà còn là dấu mốc khởi đầu của bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình lịch sử Việt Nam sau đó. Từ một thanh niên ở một nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc lại là người đồng sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp, một chính đảng rất mạnh và đã có nhiều ủng hộ thiết thực cho cách mạng Việt Nam sau này.
Năm 1922 cũng tại Pháp, có một thanh niên Trung Quốc đang hoạt động ở nước Pháp là Chu Ân Lai, vị thủ tướng đáng kính của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa sau này. Tại nước Pháp, Chu Ân Lai đã làm quen với Nguyễn Ái Quốc và được Người bồi dưỡng, giới thiệu vào Đảng Cộng sản Pháp rồi sinh hoạt cùng chi bộ với Nguyễn Ái Quốc. Sau này, khi nhắc lại những kỷ niệm đối với Hồ Chí Minh, Chu Ân Lai đã nói: “Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn dắt tôi trong những bước đầu tiên tham gia công tác cách mạng. Người đã giới thiệu một số đồng chí chúng tôi vào Đảng Cộng sản Pháp. Lúc đó tôi thường tới gặp Người ở ngõ hẻm Côngpoanh tại khu La tinh. Người sống rất thanh đạm, giản dị, nhưng sự hiểu biết của Người rộng lớn, sự hoạt động của Người thật phong phú. Người biết nhiều tiếng nước ngoài. Đạo đức, trí tuệ của Người như một thanh nam châm, cuốn hút, hấp dẫn chúng tôi, những thanh niên mới bước vào con đường cách mạng...”.
Từ nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm và bằng tài năng thiên bẩm của mình, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận rằng phải tiến hành cách mạng vô sản theo con đường của Lênin mới có thể giải phóng được dân tộc, muốn vậy phải có một chính đảng mác-xít ở Việt Nam.
Trước khi lên tàu rời Paris vào tối ngày 13-6-1923 để qua Đức và sang Liên Xô, trong bức thư gửi những người bạn cùng hoạt động trong Hội Liên hiệp thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ mục đích của mình: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”.
Trong thời gian ở Moskva, Người đã tiến hành nhiều hoạt động để chuẩn bị cho hành trình đến Trung Quốc, Người đã liên hệ với cách mạng Trung Quốc nhằm nắm vững tình hình ở Trung Quốc, tranh thủ mọi liên hệ và giúp đỡ khi Người tới Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thực hiện mong muốn, khát vọng ấy và được sự đồng ý của Quốc tế Cộng sản, ngày 11-11-1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc rời Thủ đô Moskva đến Quảng Châu, Trung Quốc với tên gọi Lý Thụy trên danh nghĩa công khai là cán bộ phiên dịch trong Phái bộ của cố vấn Bôrôđin, bên cạnh Chính phủ Quốc dân Đảng của lãnh tụ Tôn Trung Sơn.
Từ đây, Quảng Châu-Trung Quốc trở thành nơi ươm mầm của cách mạng Việt Nam.