Tư tưởng trọng dụng nhân tài, trọng dụng trí thức của Hồ Chí Minh đã có từ rất sớm nhưng nó đã được thể hiện rõ nét nhất ngay trong Bản Chương trình của Mặt trận Việt Minh. Chủ trương của Việt Nam độc lập đồng minh: “Chủ trương liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng, đảng phái chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở...Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ cộng hòa[1]”.
Đã có rất nhiều những câu chuyện nổi tiếng trong việc thu phục trí thức của Hồ Chí Minh trở thành những câu chuyện sống động và là bài học cho mai sau. Ngay sau khi vua Bảo Đại thoái vị, Ngài đã được Hồ Chí Minh mời làm cố vấn tối cao của Chính phủ, không những thế, Ngài còn được giới thiệu ứng cử Đại biểu Quốc hội đơn vị bầu cử tỉnh Thanh Hóa và được chỉ định là thành viên Ban Soạn thảo Hiến pháp khóa I. Chúng ta đều biết, Ngài Bảo Đại đã học hầu hết các trường ở Pháp, trong đó có Trường Khoa học Chính trị. Hồ Chí Minh cũng đặt vấn đề mời Ngô Đình Diệm, cựu Thượng thư Bộ lại của triều đình giữ một chức vụ Bộ trưởng, nhưng vì các lý do riêng nên ông Ngô Đình Diệm đã không nhận lời[2]. Sau khi không mời được ông Ngô Đình Diệm, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một vị trí thức nổi tiếng, mặc dù năm ấy đã 70 tuổi: Cụ Huỳnh Thúc Kháng. Cụ Huỳnh Thúc Kháng từng đậu Giải nguyên kỳ thi hương năm Canh Tý (1900) và được xưng tụng là một trong Thập Ngũ phụng tề phi của đất Quảng Nam xưa; sau đó Cụ thi đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Giáp Thìn, niên hiệu Thành Thái thứ 6 (1904). Dù đỗ tiến sĩ nhưng cụ Huỳnh không làm quan, Cụ cùng các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Trần Quý Cáp lãnh đạo phong trào Duy Tân chống lại người Pháp đô hộ. Năm 1908, Cụ bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo 13 năm cho tới năm 1919 mới được thả về đất liền. Năm 1926, người Pháp lập Viện Dân biểu Trung Kỳ, Cụ Huỳnh ra ứng cử và đã trúng cử, sau đó Cụ được bầu là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ (giống như Quốc hội miền Trung). Trong ba năm hoạt động ở Viện, Cụ cương quyết tranh đấu trong nghị trường. Khi biết người Pháp lập ra Viện Dân biểu Trung Kỳ để lừa bịp dân ta, Cụ đã lên diễn đàn đọc một bài phát biểu nảy lửa và sau đó bỏ ra về, từ chức Viện trưởng. Một con người mà chức vụ không thể lung lay, uy dũng không thể khuất phục, tiền bạc không thể mua chuộc thì cái gì mới có thể, nếu không phải là tất cả vì nước, vì dân, vì một vị “minh chủ”. Sau hai lần mời, Cụ Huỳnh đã nhận lời ra Hà Nội nhưng ra “để xem Hồ Chí Minh làm như thế nào rồi sẽ trở về”. Khi ra Hà Nội, bằng sức hút của Hồ Chí Minh, Cụ Huỳnh đã ở lại nhận lời làm Bộ trưởng Nội vụ. Trong buổi trình diện các thành viên Chính phủ trước Quốc hội ngày 02-3-1946, Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh đã giành những lời lẽ tốt đẹp nhất để giới thiệu về Cụ Huỳnh trước Quốc hội. Khi Bác Hồ lên đường thăm Pháp năm 1946, dù có rất nhiều những người thân tín, nhưng Hồ Chí Minh đã quyết định trao Quyền chủ tịch Chính phủ cho Cụ Huỳnh. Khi trao cho Cụ Huỳnh làm Quyền Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh cũng không cặn dặn gì nhiều mà chỉ nói ngắn gọn “Xin Cụ ở nhà hãy “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Trong bối cảnh nước sôi lửa bỏng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Pháp dài ngày như vậy, Quyền chủ tịch Chính phủ Huỳnh Thúc Kháng đã hoàn thành xuất sắc trọng trách mà Hồ Chí Minh tin tưởng và giao phó. Điều này không chỉ thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng của Hồ chí Minh đối với những trí thức lớn luôn toàn tâm, toàn ý vì đất nước, dân tộc và Nhân dân mà còn khắc họa rõ nét nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng trí thức: Đã dùng thì phải tin, đã tin mới dùng.
Tư tưởng này sau đó cũng đã được Hồ Chí Minh thể hiện trong trường hợp ông Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp trước hết là một trí thức vì ông đã từng làm Báo Tiếng Dân ở Huế với Cụ Huỳnh, ông là giáo sư sử học Trường Thăng Long. Khi Võ Nguyên Giáp nhận lãnh nhiệm vụ Tổng Tư lệnh và ra chiến dịch Điện Biên Phủ, Hồ Chí Minh cũng không căn dặn ông phải làm thế này, thế khác. Trước khi đi ông có hỏi Hồ Chí Minh và đã được trả lời: Chú là tướng, chú ở ngoài mặt trận, “Tướng quân tại ngoại”. Vì sự tin tưởng tuyệt đối này từ Hồ Chí Minh nên tướng Võ Nguyên Giáp đã có một quyết định lịch sử mà sau này ông gọi là quyết định khó khăn nhứt trong đời cầm quân của ông: Kéo pháo ra chuẩn bị lại rồi mới kéo vào.
Sau Cách mạng Tháng 8-1945, rất nhiều quan lại, trí thức của triều đình phong kiến đi theo cách mạng như các vị Bùi Bằng Đoàn (Thượng thư Bộ hình triều Nguyễn); Phan Kế Toại (Khâm sai đại thần Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim); Phạm Khắc Hòe (Đổng lý Ngự tiền đức vua Bảo Đại); Tham tri Đặng Văn Hướng; Vi Văn Định (cựu Tổng đốc Thái Bình); Hồ Đắc Điềm (cựu Tổng đốc Hà Đông); cụ Ưng Úy, thành viên hoàng tộc Nhà Nguyễn, thuộc hàng cha chú vua Khải Định; nhà Hán học nổi tiếng Bùi Kỷ; Phan Anh (Bộ trưởng Thanh niên Chính phủ Trần Trọng Kim)…Khi Ủy ban Dân tộc giải phóng tự cải tổ thành Chính phủ Lâm thời, ngoài những thành viên của Việt Minh còn có những bộ trưởng là người không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương như Bộ trưởng Thanh Niên Dương Đức Hiền (Đảng Dân chủ), Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế Nguyễn Mạnh Hà (một người công giáo không đảng phái), Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính Đào Trọng Kim (không đảng phái), Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội Nguyễn Văn Tố (không đảng phái)…Chính phủ khóa I được lập ra sau ngày bầu cử Quốc hội khóa I ngày 06-01-1946, những đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương đã tự rút lui để nhường các ghế bộ trưởng lại cho các thành viên các chính đảng khác, các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Việt Minh chỉ nắm 4 ghế là Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Giáo dục Đặng Thai Mai, Bộ trưởng Tài chính Lê Văn Hiến và Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội Võ Nguyên Giáp. Còn lại tất cả các chức vụ khác đều do các nhân sĩ trí thức hoặc của các chính Đảng khác nắm như: Phó Chủ tịch Chính phủ Nguyễn Hải Thần (Việt Cách), cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nhân sĩ không đảng phái); Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Tường Tam (nhà văn Nhất Linh, Việt Quốc)…Quốc hội cũng thành lập Cố vấn đoàn do Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại) đảm nhiệm và Giám mục Lê Hữu Từ Giám mục Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm là thành viên.
Ngay sau cách mạng Tháng Tám, theo đề nghị của Bộ trưởng Nội vụ, sau khi tham khảo ý kiến nhiều nhân sĩ, trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến thiết (gồm 50 thành viên là các trí thức, nhân sĩ nổi tiếng, các bộ trưởng và thứ trưởng) để nghiên cứu một kế hoạch kiến thiết quốc gia và dự thảo những đề án kiến thiết đệ trình lên Chính phủ. Rất nhiều các trí thức Tây học nổi tiếng đã từ bỏ cuộc sống giàu sang, phú quý nơi trời Tây hoặc nơi sung sướng trong nước để về tham gia kháng chiến, kiến quốc như Trần Đại Nghĩa, Võ Đình Quỳnh, Võ Quý Huân, Trần Hữu Tước, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đăc Di, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Văn Huyên, linh mục Phạm Bá Trực, cụ Cao Triều Phát…Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được bầu ra ngày 06-01-1946 có rất nhiều các vị đại biểu là những trí thức nổi tiếng. Khi ấy, Hà Nội có 07 đại biểu, ngoài Hồ Chí Minh, 06 người khác còn lại đều là các trí thức nổi tiếng: Hoàng Văn Đức, Vũ Đình Hòe, Trần Duy Hưng, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Thị Thục Viên, Chu Bá Phượng. Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn có 05 đại biểu cũng là những trí thức: Huỳnh Văn Tiểng, Lý Chính Thắng, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Văn Trấn, Hoàng Đôn Văn. Ngoài ra, còn hàng loạt các tên tuổi trí thức nổi tiếng khác như: Lê Trung Đình (Thái Nguyên); Dương Đức Hiền, Nguyễn Huy Tưởng (Bắc Ninh); Đào Trọng Kim, Khuất Duy Tiến (Sơn Tây); Cù Huy Cận, Đỗ Đức Dục, Nguyễn Đỗ Cung, Bùi Bằng Đoàn, Hoàng Minh Giám, Đặng Kim Giang, Hoàng Tích Trí (Hà Đông); Ngô Xuân Diệu (nhà thơ Xuân Diệu - Hải Dương); Bồ Xuân Luật, Nguyễn Mạnh Hà (Hưng Yên); Y Ngông Niê Kdăm (Đắc Lắk); Huỳnh Tấn Phát (Mỹ Tho); Phạm Văn Bạch (Bến Tre); Nguyễn Văn Hưởng (Long Xuyên); Bùi Công Tường (Gò Công); Cao Triều Phát (Bạc Liêu)…Có thể khẳng định rằng, mặc dù phần đông dân số Việt Nam khi người Pháp đô hộ mù chữ và mới chỉ thoát mù sau Bình dân học vụ của Chính phủ mới, nhưng Quốc hội khóa I đã quy tụ được đông đảo giới trí thức trong cả nước.