Qua 5 năm, cùng với hệ thống chính quyền số cơ bản đã hình thành thì trụ cột kinh tế số và xã hội số trên địa bàn tỉnh đã có những chuyển biến rõ rệt, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân.
Thanh toán không dùng tiền mặt đã trở nên phổ biến trong đời sống xã hội.
Phát triển kinh tế số
Kinh tế số trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến. Hoạt động thương mại, dịch vụ diễn ra sôi động, nhất là hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) ngày càng phát triển.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tỷ trọng kinh tế số trên GRDP tỉnh năm 2024 đạt 7,63%, xếp hạng thứ 27/63 tỉnh, thành phố (trong khi đó, năm 2020 chỉ đạt 6,31%). Hiện toàn tỉnh có 55 doanh nghiệp (DN) công nghệ thông tin đang hoạt động trên tổng số gần 3.700 DN, 100% DN nhỏ và vừa sử dụng các nền tảng số, cũng như nộp thuế điện tử, sử dụng hóa đơn điện tử và chữ ký số, số lượng DN có website sử dụng tên miền .vn là 2.550 (đạt 70%).
Hầu hết các sản phẩm đặc trưng của tỉnh đều được đưa lên sàn TMĐT. Sàn TMĐT Đặc sản Bến Tre cũng được nâng cấp và vận hành, với gần 73 gian hàng và 240 sản phẩm đặc sản, sản phẩm chủ lực, sản phẩm đạt chứng nhận OCOP. 100% sản phẩm OCOP được xúc tiến quảng bá thương hiệu nền tảng TMĐT. Trên 15% các sản phẩm chủ lực của các xã nông thôn mới nâng cao được kinh doanh qua kênh TMĐT (Zalo, Facebook, Postmart, Shopee, Lazada, Sendo...).
Thống kê cuối năm 2024, xu hướng bán hàng đa kênh, kết hợp TMĐT với các nền tảng mạng xã hội trên địa bàn tỉnh tăng 132,8% về số lượng và 123,6% về giá trị. Giao dịch qua ATM giảm 64,2% về số lượng và 60,1% về giá trị phản ánh rõ nét nhu cầu rút tiền mặt của người dân ngày càng giảm và dần được thay thế bởi các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, nhất là thanh toán quét mã QR. Có khoảng 95% dân số từ 15 tuổi trở lên có tài khoản giao dịch thanh toán tại ngân hàng; trong đó, số lượng tài khoản mở trực tuyến chiếm 24,7%. Hiện nay, hầu hết các địa phương đều đã triển khai mô hình “Tuyến phố không tiền mặt”, “Chợ 4.0”, “Chợ thanh toán không dùng tiền mặt”, tạo thêm điều kiện để thúc đẩy người dân ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt.
Xây dựng xã hội số
Qua thời gian thực hiện các giải pháp đầu tư, xây dựng xã hội số, hiện nay, về cơ bản, “diện mạo” xã hội số trên địa bàn tỉnh đã hình thành. Hạ tầng bưu chính chuyển phát, viễn thông, Internet trên địa bàn tỉnh đã được đầu tư hiện đại hóa, đảm bảo thông tin liên lạc trong và ngoài tỉnh, cung cấp các dịch vụ với chi phí phù hợp và độ tin cậy cao. 100% xã, phường, thị trấn có bưu điện khu vực hoặc bưu điện văn hóa xã và có thư báo đến trong ngày.
Trên địa bàn tỉnh, có 7 DN viễn thông đang hoạt động cung cấp dịch vụ viễn thông. Hiện nay, về hạ tầng viễn thông, có 1.712 trạm thu phát sóng viễn thông (BTS), tăng 415 trạm so với năm 2020, đặc biệt có 81 trạm phát sóng 5G. Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng trên 1,54 triệu thuê bao, đạt mật độ 118,59 thuê bao/100 dân. Tổng số thuê bao Internet hiện có trên 1,3 triệu thuê bao, trong đó, thuê bao băng rộng di động là trên 1 triệu thuê bao.
Tuyến truyền dẫn cáp quang kéo đến 100% ấp, khu phố. Tỷ lệ dân số được phủ sóng 3G, 4G đạt 100% (năm 2020, tỷ lệ dân số được phủ sóng 4G đạt 98%). Tỷ lệ hộ gia đình có kết nối Internet băng rộng cáp quang đạt 78,99%, tăng 27,84% so với năm 2020. Các DN viễn thông thường xuyên nâng cấp mạng di động 4G; nâng cao tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại di động thông minh; đầu tư mua sắm thay thế, bổ sung, nâng cấp trang thiết bị công nghệ thông tin phục vụ hoạt động các cơ quan đảng và chính quyền các cấp. Các yếu tố hạ tầng số này chính là nền tảng để thúc đẩy người dân hình thành các thói quen số, ứng dụng công nghệ số phục vụ đời sống xã hội.
Để thúc đẩy phát triển công dân số, văn hóa số, tỉnh cùng các DN công nghệ đã và đang triển khai nhiều chương trình hỗ trợ người dân. Cụ thể như: Chương trình hỗ trợ giảm giá điện thoại thông minh cho người dân. Chương trình hỗ trợ chữ ký số miễn phí cho người dân thực hiện ký số hồ sơ dịch vụ công trực tuyến (DVCTT). Hỗ trợ tạo tài khoản giao dịch điện tử miễn phí…
Các cấp từ tỉnh đến xã đã kiện toàn, nâng cao vai trò của 1.111 Tổ công nghệ số cộng đồng trong thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số (CĐS). Tổ công nghệ số cộng đồng có nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về CĐS đến các hộ gia đình, người dân trong tổ, ấp, khu phố. Các hoạt động điển hình như Tổ công nghệ số cộng đồng đã triển khai như: đạp xe tuyên truyền, cà phê CĐS, thúc đẩy Chợ 4.0, số hóa tuyến đường, di tích… đã góp phần tạo ra giá trị thiết thực thúc đẩy TMĐT, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong cộng đồng dân cư.
Người dân tham gia chuyển đổi số
Các tầng lớp nhân dân đang dần trở thành nhân tố tích cực tham gia vào quá trình CĐS, tích cực hưởng ứng các hoạt động giao dịch điện tử, DVCTT, thanh toán không dùng tiền mặt, các nền tảng số VssID, VNeID, IOC tỉnh. Tỷ lệ người dân, DN biết và sử dụng DVCTT, thanh toán trực tuyến ngày càng tăng cao, chiếm hơn 70% số lượng hồ sơ tiếp nhận và giải quyết trên môi trường điện tử (năm 2024). Trên 90,2% công dân đủ điều kiện đã kích hoạt định danh điện tử trên ứng dụng VNeID. Tỷ lệ dân số trưởng thành có đăng ký tài khoản giao dịch tại ngân hàng hơn 90% (1,31 triệu tài khoản ngân hàng được mở trên tổng hơn 1,36 triệu dân). 63,3% đối tượng an sinh xã hội đã được chi trả không dùng tiền mặt.
Hầu hết đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh có tài khoản sử dụng DVCTT và sử dụng DVCTT khi có nhu cầu thực hiện thủ tục hành chính; cài đặt và sử dụng các dịch vụ số phục vụ các nhu cầu thiết yếu như: y tế, giáo dục, chính sách xã hội (app phản ánh hiện trường, app dịch vụ công, VssID, VNeID, IOC tỉnh, các ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt).
Các địa phương đã triển khai mô hình “Camera an ninh” giám sát an ninh trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn quản lý; triển khai hệ thống truyền thanh thông minh, hệ thống y tế từ xa (Telehealth), hệ thống phục vụ họp trực tuyến; đẩy mạnh việc thu nhận, cấp tài khoản định danh điện tử cho công dân.
Ngoài ra, để đánh giá mức độ người dân tham gia cùng cơ quan nhà nước giải quyết vấn đề của địa phương, tỉnh đã triển khai Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh hiện trường để tiếp nhận, xử lý và trả lời kịp thời những phản ánh của cá nhân, tổ chức trên môi trường mạng qua các kênh thông tin tiếp nhận phản ánh như: Cổng thông tin, ứng dụng di động, Zalo, Facebook. Trong đó, 100% các phản ánh được xử lý đúng hạn, 97% người dân, DN hài lòng trong xử lý phản ánh, kiến nghị. 93,57% người dân, DN hài lòng trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính đối với cơ quan nhà nước.