Site banner

Toàn Đảng, toàn dân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Thứ ba, 10 Tháng 6, 2025 - 13:36

Kỳ 3: Nhận thức và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức

Kỳ 3: Nhận thức và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức

Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức rất rõ và hình thành ngay từ khi người còn hoạt động ở nước ngoài. Từ khi còn hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh vai trò của trí thức. Trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản năm 1923, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Thiểu số các nhà nho hay là các nhà trí thức là các nhà cách mạng dân tộc chủ nghĩa. Chính họ đã kích động mọi cuộc nổi dậy trong quá khứ[1]”. Nhận định chính xác này của Nguyễn Ái Quốc đã đi theo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cho đến mãi sau này và đã được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa thành những chủ trương, đường lối trong những giai đoạn khác nhau (trừ những giai đoạn rơi vào quá tải).

Tuy nhiên, có một thực tế lịch sử là có một giai đoạn Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà lãnh đạo có vai trò và tiếng nói quyết định đến các quyết sách của Đảng. Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã thông qua Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng, đây là những bản Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam và thể hiện rõ nhất tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, về quy tụ trí thức. Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập[2]”. Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam họp Hội nghị Trung ương bầu ông Trần Phú làm Tổng Bí thư của Đảng và đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Cùng với đổi tên Đảng, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã được thay thế bằng Luận cương chính trị tháng 10-1930. Cương lĩnh mang tính lịch sử, những nội dung quy định trong bản Cương lĩnh này sau này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ dần dần khắc phục, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là những quan niệm về trí thức. Cương lĩnh chính trị 10-1930 đã gần như quan niệm, lật ngược hoàn toàn quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về trí thức khi ghi rõ: “Bọn trí thức, tiểu tư sản, học sinh…là bọn có xu hướng quốc gia chủ nghĩa, chúng nó đại biểu cho quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn xứ, Chớ không phải chỉ bênh vực quyền lợi riêng cho bọn tiểu tư sản mà thôi. Trong thời kỳ chống đế quốc chủ nghĩa thì bọn ấy cũng hăng hái tham gia, nhưng chỉ lúc đầu mà thôi; chúng nó không thể binh vực quyền lợi cho dân cày được, vì chúng nó phần nhiều có giây dướng với bọn địa chủ…[3]”. Năm 1931, Xứ ủy Trung kỳ ra chỉ thị về vấn đề thanh Đảng. Chỉ thị viết: “Thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ[4]”. Nhận thấy đây là một nhận định và chủ trương, nếu không kịp thời chấn chỉnh và khắc phục sẽ để lại hậu quả tai hại, ảnh hưởng đến sức mạnh khối đoàn kết dân tộc, Trung ương Đảng đã kịp thời uốn nắn nhận thức quá tả này và khẳng định: “Xứ ủy Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư, ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: Thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ, như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chí tướng[5]”. Trung ương yêu cầu Xứ uỷ Trung Kỳ phải có nhận thức đúng đắn và sửa sai: “Vậy tiếp được chỉ thị này, Xứ ủy phải nghiêm mật khảo xét lại từng địa phương, từng bộ phận, từng cá nhân, người nào sai, bộ phận nào sai phải dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy[6]” để tự chỉ trích, khắc phục những sai lầm trên (khi ấy đồng chí Trần Phú vừa bị giặc bắt). Như vậy, rõ ràng khẩu hiệu trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ thực chất chưa bao giờ là chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó chỉ là khẩu hiệu thanh lọc trong nội bộ Đảng và được thực hiện ở Xứ ủy Trung Kỳ nhưng Trung ương đã kịp thời chấn chỉnh.

Trước Đại hội lần thứ II của Đảng năm 1951, mặc dù quan niệm về trí thức đã có sự thay đổi căn bản, nhất là từ khi Nguyễn Ái Quốc về nước và thành lập Mặt trận Việt Minh với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc rộng rãi được ghi rõ trong Chương trình của Việt Minh; thế nhưng, để thay đổi một nhận thức đã ăn sâu, bám rễ vào nhiều tầng lớp đảng viên không phải dễ dàng. Có lẽ vì vậy mà trước Đại hội II, 1951, Đảng ta vẫn xếp thợ thuyền và nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng Đông Dương. Những khúc mắc, xung đột giữa các cán bộ là trí thức và các nhà cách mạng xuất thân từ giới thợ thuyền đã có lúc đến mức gay gắt. Cụ Vũ Đình Hòe, Bộ trưởng Bộ Tư pháp của Chính phủ thời kỳ kháng Pháp ở chiến khu Việt Bắc trước 1951 đã viết rất rõ về những xung đột này trong Hồi ký của Cụ. Có lẽ vì vậy mà năm 1947, mặc dù trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở thời kỳ gay go quyết liệt nhưng Hồ Chí Minh đã giành thời giờ viết một tác phẩm nổi tiếng Sửa đổi lối làm việc để chấn chỉnh nhiều tư tưởng, nhận thức lệch lạc, nhất là trong vấn đề trí thức. Khi ấy, rất nhiều các trí thức nổi tiếng, các vị quan lại cũ của triều đình đi theo cách mạng đang tề tựu đông đủ trong tất cả các cơ quan Trung ương ở Việt Bắc. Đại hội II của Đảng, vấn đề trí thức mới dần dần được gỡ ra, khi xác định trí thức là: “bạn đồng minh có thể tin cậy”. Sau đó, quan điểm của Đảng về trí thức đã dần dần thay đổi theo hướng đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò của trí thức qua các đại hội III (năm 1960), Đại hội IV (năm 1976), Đại hội V (năm 1982). Đại hội VI của Đảng (năm 1986) mở ra thời kỳ đổi mới đất nước toàn diện, vì vậy, vấn đề trí thức đã dần dần được nhìn nhận sáng tỏ hơn. Đại hội định ra đường lối đổi mới toàn diện, thì vấn đề trí thức được thực sự mở ra với những điểm sáng mới. Văn kiện Đại hội VI của Đảng xác định: “Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức ngày nay là những người lao động xã hội chủ nghĩa, được Đảng giáo dục và lãnh đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân và nông dân[7]”. Đại hội VI cũng chính thức cam kết bảo đảm quyền tự do, sáng tạo của trí thức: “Điều quan trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển[8]”. Sự nhìn nhận với tư cách là Đảng lãnh đạo, vấn đề trí thức Việt Nam đã được thể hiện với tư duy mới trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Cương lĩnh năm 1991): “Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước[9]”. Năm 2008, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về trí thức, trong đó khẳng định: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững[10]”.

Cùng với những quan điểm, chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức trong nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” quy định: “Có hình thức thích hợp tổ chức thu thập ý kiến của đồng bào ở nước ngoài trước khi ban hành các văn bản pháp quy, chính sách có liên quan nhiều tới người Việt Nam ở nước ngoài. Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật của nước nhà. Xây dựng và hoàn thiện các chính sách tạo thuận lợi và khuyến khích các ngành, các trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ, văn hóa nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, y tế, thể dục - thể thao, các cơ sở sản xuất, dịch vụ... ở trong nước mở rộng hợp tác, thu hút sử dụng chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia công việc ở trong nước, làm việc cho các chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương của Việt Nam với nước ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu dành cho người Việt Nam và tư vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác nước ngoài[11]”.

Sau khi tổng kết thực hiện Nghị quyết này, ngày 19-5-2015, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị 45-CT/TW “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” tiếp tục khẳng định nhất quán quan điểm tập hợp, tạo điều kiện thuận lợi để trí thức người Việt Nam ở nước ngoài cùng đóng góp tài trí xây dựng đất nước. Chỉ thị nêu rõ: “Thường xuyên tổ chức cho người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp ý kiến và tham gia vào các sự kiện chính trị - xã hội lớn của đất nước. Rà soát, bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật tạo hành lang pháp lý thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài về đầu tư, sản xuất kinh doanh, góp phần vào thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ từ các nước vào Việt Nam và thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Có chính sách thu hút, sử dụng chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thiết yếu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[12]”.

 


[1] Hồ Chí Minh (1995), toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 1, tr. 204

[2] https://tennguoidepnhat.net/2012/08/26/sach-luoc-van-tat-cua-dang-1930/

[3] Văn kiện Đảng (1998), toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr. 96

[4] Dẫn lại theo Văn kiện Đảng (1998), toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3, tr. 157

[5] Văn kiện Đảng (1998), toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr. 157

[6] Văn kiện Đảng (1998), toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr. 157

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 115

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 115

[9]  Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 15

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 90-91

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam)

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Chỉ thị “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (Chỉ thị số  45-CT/TW, ngày 19-5-2015 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam)

 

 

 

Nguồn Internet.