Quảng Châu là thủ phủ tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc bởi nơi đây, từ năm 1923 đã được chọn làm thủ đô của Chính phủ Tôn Trung Sơn. Bởi vậy nơi đây quy tụ nhiều nhà cách mạng Việt Nam và thế giới.
Những năm 1923-1927, Quảng Châu là một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa lớn ở miền Nam Trung Quốc. Không chỉ là nơi tập trung đông đảo các nhà cách mạng Trung Quốc và nhiều nước, trong đó có Việt Nam, Quảng Châu còn có bến cảng thông thương quốc tế, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho sự liên lạc giữ trung tâm cách mạng này với các phong trào cách mạng bên trong đất nước Việt Nam.
Tháng 1-1924, tại Quảng Châu, Quốc Dân đảng Trung Quốc tổ chức Đại hội lần thứ I và tuyên bố thực hiện chủ nghĩa Tam Dân mới của Tôn Trung Sơn với ba chính sách lớn: liên Nga, liên Cộng và giúp đỡ công nông; tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô, cải tổ Quốc dân Đảng với sự giúp đỡ của đoàn cố vấn do Liên Xô và Quốc tế Cộng sản cử tới.
Đây được xem là quyết định vô cùng quan trọng và có tác tác động rất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam. Như vậy là ngay những năm cuối đời mình, lãnh tụ Quốc Dân đảng Trung Quốc - Tôn Trung Sơn đã ngả về phía những người cộng sản và quyết định liên hiệp với nước Nga xô viết, liên hiệp với những người Cộng sản. Tiếc thay sau khi ông mất, một thuộc cấp của ông là Tưởng Giới Thạch và cũng là anh em cọc chèo của ông đã phản lại đường lối này. Thật may mắn, lãnh tụ Tôn Trung Sơn còn có điểm an ủi lớn đó là phu nhân của ông, bà Tống Khánh Linh, Chủ tịch danh dự nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã suốt đời thực hiện ước nguyện của chồng, đã trọn đời đi với cách mạng vô sản Trung Quốc.
Cũng chính tại Quảng Châu, Trung Quốc, vào năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã quen biết bà Tống Khánh Linh khi đó là vợ và là cộng sự đắc lực của lãnh tụ Quốc Dân Đảng - Tôn Trung Sơn. Nhờ tình bạn này mà sau này bà Tống Khánh Linh đã giúp Bác Hồ thoát khỏi tình cảnh ngặt nghèo trên con đường hoạt động cách mạng. Sau này, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc, vừa bước xuống cầu thang máy bay, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tống Khánh Linh ra đón đoàn. Hôm ấy trời mưa, Hồ Chủ tịch đã tiến lại, lấy chiếc mũ trên đầu mình đội lên đầu bà Tống Khánh Linh và cảm động nói: “bà đội để khỏi ướt đầu. Năm 1933, ở Thượng Hải, tôi hết tiền, bắt liên lạc với đoàn thể không được, nếu không được phu nhân giúp đỡ thì thật là khó khăn...”.
Không chỉ chủ nghĩa Tam Dân mới mà cả chủ nghĩa Tam Dân: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc mà lãnh tụ Tôn Trung Sơn đề xuất đã có ảnh hưởng và tác động lớn với Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Có lẽ vì vậy mà sau này Hồ Chí Minh đã viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Chính chủ nghĩa Tam dân mới với rất nhiều những điểm tiến bộ và phù hợp với xu thế của thời đại, của lịch sử nên Nguyễn Ái Quốc nhận thấy “thích hợp với điều kiện của nước ta hiện nay”.
Sau khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ mà phần lớn trong số họ là những thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước. Có lẽ vì vậy chúng ta không khó để nhận ra rằng những nhà cách mạng lớp đầu tiên ấy của đất nước phần lớn là trí thức. Là trí thức, họ có thuận lợi là biết tiếng Pháp mới dễ dàng tiếp nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin vốn khi ấy đa phần được viết bằng tiếng Pháp để truyền về trong nước. Những học viên này sau khi học xong đã “bí mật về nước truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân”. Một số thành viên được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi sang học tại Trường Đại học Phương Đông ở Moskva (Liên Xô) hoặc Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc)…
Tại Quảng Châu, Trung Quốc vào năm 1923 đã có một tổ chức của những thanh niên Việt Nam yêu nước được thành lập, đó là Tâm Tâm Xã với những thanh niên trí thức như: Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lâm Đức Thụ...Tâm Tâm Xã chủ trương: "Liên hiệp những người có tri thức trong toàn dân Việt Nam, không phân biệt ranh giới, đảng phái; miễn là có quyết tâm hi sinh tất cả tư ý và quyền lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm người của người Việt Nam". Khi ở Quảng Châu, Trung Quốc, tháng 2-1925, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn, giác ngộ một số thanh niên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã, lập ra Cộng sản đoàn, trong đó có: Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lưu Quốc Long, Trương Văn Lĩnh, Lê Quang Đạt, Lâm Đức Thụ.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quần chúng rộng rãi hơn, đó chính là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, là đội tiền phong cách mạng của dân chúng Việt Nam. Nhằm “tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tụi chó săn của chúng nó mà tự cứu lấy mình”. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là Tổng bộ, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn. Trụ sở của Tổng bộ đặt tại Quảng Châu. Để có một cơ quan tuyên truyền của tổ chức, ngày 21-6-1925, tuần báo Thanh niên, cơ quan trung ương của Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra số đầu tiên. Ngày 21 tháng 6 hàng năm đã được lấy làm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam chính từ sự kiện này. Kể từ khi ra đời, trong giai đoạn giữa năm 1925 đến trước tháng 4-1927, Hội đã tổ chức được nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ. Những bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau đó đã được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp, xuất bản thành cuốn sách Đường kách mệnh (năm 1927).
Khi trả lời một nhà văn người Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Trước khi ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã khẳng định chỉ muốn đi nước ngoài xem người ta làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào mình. Năm 1941, sau hành trình “ba mươi năm ấy chân không mỏi” (Tố Hữu), Nguyễn Ái Quốc đã về đến Tổ quốc để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Người, đã có nhiều địa danh đã gắn với Người, song Quảng Châu, Trung Quốc, nơi Người lựa chọn, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là một địa danh, một dấu ấn đặc biệt.